BBT đăng thư TS Phạm Trọng Chánh trả lời phản biện hiền huynh Dương Xuân Lương để quý vị tường lãm trình độ của Tiến Sĩ Chánh về Đạo Cao Đài: QUÁ TỆ.
Nay kính.
Link bài phản biện:
Bài trả lời ngày 10-10-2025 của TS Phạm Trọng Chánh.
Link trang: http://chimvie3.free.fr/97/index97.htm#tutuong
Link
các bài:
http://chimvie3.free.fr/97/duongxuanluong/DXL_DaoCaoDai_TranhLuan_097.htm
Bản
PDF:
http://chimvie3.free.fr/baivo/phamtrongchanh/phamtrongchanh_DaoCaoDaiVaVictorHugo_2.pdf
BẢN VI TÍNH.
ĐẠO
CAO ĐÀI VÀ VICTOR HUGO NHỮNG HUYỀN THOẠI CỦA HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC
TS
PHẠM TRỌNG CHÁNH
Đạo
Cao Đài và Victor Hugo là sách của Tiến sĩ Trần Thu Dung do nhà Xuất
bản Đông Tây và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản năm 2011.
Nguyên là một luận án Tiến sĩ viết bằng tiếng Pháp được trình tại
Viện Đại Học Paris VII và tác giả viết lại bằng tiếng Việt. Tác
giả đã tặng tôi quyển sách này và để đáp lại niềm ưu ái đó tôi đã
viết bài giới thiệu quyển sách. Đây là một công trình nghiên cứu khoa
học tác giả mất hơn ba năm để sưu tập tài liệu từ trong nước đến
hải ngoại. Vào văn khố các hội Tam Điểm tại Paris và các nơi để xác
định thẻ hội viên các nhân vật Việt Nam và Pháp tại Đông Dương. Thư
mục tham khảo liệt kê toàn bộ các sách đã viết về Đạo Cao Đài.
Trước
đó tôi có người bạn là anh Nguyễn Văn Trần đã trình luận án Les
sectes PoliticoReligieuses au Sud du Viêtnam Thèse 3è cycles, Université
Paris VII,1987. Trong luận án có một phần nói về Đạo Cao Đài.
Để
trình luận án và chấm đậu bằng Tiến Sĩ, luận án phải đầy đủ
chứng cớ khoa học, tài liệu tham khảo, thì không thể có chuyện bịa
đặt nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử: phản khoa học, thiếu chứng
cớ lịch sử, và sai pháp lý . Ông Dương Xuân Lang Khối Nhơn sanh Đạo Cao
Đài Hải Ngoại đã viết ba bài cho rằng : -1.Phạm Thị Tốt không phải
là con Phạm Công Tắc, chỉ là điều bịa đặt. 2.Đạo Cao Đài không có
quan hệ gì với Hội Tam Điểm. 3. Victor Hugo cơ bút là Nguyệt Tâm Chơn
Nhơn là tác giả các kinh Cao Đài. Đây là một công trình nghiên cứu
khoa học của bà Trần Thu Dung, được chấm đậu luận án Tiến Sĩ, của
một đại học danh giá Sorbonne Paris, có từ thế kỷ thứ 10, thì không
ai có thể phủ nhận tính cách khoa học của nó. Đây là một công trình
nghiên cứu khoa học, nó không phải là những bài viết truyền đạo, dĩ
nhiên điều này làm phật lòng chuyện thần thánh hóa những người sáng
lập, và xem công trình này là điều bôi bác, đạo Cao Đài.
Ngoài
ra bà Trần Thu Dung còn là tác giả quyển Hội Tam Điểm . Với những
đóng góp của các thành viên Việt Nam đầu tiên trong công việc giải
phóng thuộc địa và bảo tồn văn hóa ngôn ngữ dân tộc. Nhà xuất bản
Sáng Illuminati. Paris 2013. Sách được GSTS Jacques Barrat, Giáo sư Ưu tú,
nguyên Ngoại Giao đoàn Cộng Hoà Pháp. Thành Viên Hàn Lâm Viện Khoa Học
Hải Ngoại giới thiệu trên trang bìa:
«Tôi
hoan nghênh sáng kiến của Hiệp Hội Interface Francophone, nhà xuất bản
Illuminati Paris và tác giả đã xuất bản công trình nghiên cứu đặc
sắc, đầu tiên này nhằm giới thiệu Hội Tam Điểm, lịch sử hiện diện
đông đảo thành viên Tam Điểm Đông Dương (1868-1954) và của những Huynh
đệ Tam Điểm người Việt đầu tiên như Vua Duy Tân, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn
Ái Quốc, Hoàng Minh Giám, Nguyễn Văn Vĩnh, Ngô Minh Chiêu, Tạ Thu Thâu,
Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim.. Các Huynh đệ này đã chia sẽ những lý
tưởng cao quý của Tam Điểm là Tự Do, Bình Đẳng và Bác Ái, đóng góp
tích cực vào công cuộc chấn hưng, bảo tồn văn hoá dân tộc và bảo vệ
chủ quyền độc lập quốc gia Việt Nam trong hoàn cảnh khó khăn của chế
độ thực dân thời bấy giờ. Tôi mong rằng cuốn sách này sẽ là một
viên gạch quý báo đóng góp vào sự hiểu biết và tinh thần thân hữu
giữa hai dân tộc Pháp-Việt trên cơ sở của giá trị Tam Điểm là Bốn
Biển Đều là Anh Em.»
Bà Trần Thu Dung từng du học tại Rumani,
Bỉ, Pháp. Tiến Sĩ Văn học Pháp (Đại học Tổng Hợp Paris VII. Từng là
giảng viên Đại Học Sư Phạm Hà Nội I, tham gia dạy trường Viết Văn
Nguyễn Du. Bà còn là tác giả các tác phẩm đã xuất bản: Chữ viết
Việt Nam. Đáp án và đề thi tú tài tiếng Việt hàng năm. Thư mục Pháp
Việt những tác phẩm viết bằng tiếng Pháp liên quan đến Đông Dương…
HẾT TRANG 1
Với
hai công trình nghiên cứu: Hội Tam Điểm và Đạo Cao Đài và Victor Hugo
bà mất mười năm nghiên cứu, thì không ai có thể phủ nhận sự chuyên
môn và tính khoa học của bà về vấn đề này.
I. TAM ĐIỂM VÀ ĐẠO CAO ĐÀI.
Hội
Tam Điểm (Franc-maçonnerie) có rải rác khắp thế giới, quy tụ những
hội viên cấp tiến với mục đích cải thiện đời sống tinh thần và đạo
đức của con người. Khẩu hiệu của hội: “Nhân đạo, bác ái, huynh đệ
và công bình”. Hội Tam Điểm là một tổ chức kín, huyền bí, xuất
hiện đầu thế kỷ XVI và du nhập vào Pháp khoảng thế kỷ XVIII. Hội
mang đặc tính hổ trợ và bác ái. Thành viên hội Tam Điểm nhận được
nhau qua những tín hiệu riêng, và những biểu tượng vật chất như thước
ê-ke, com-pa, hình tam giác, cách bắt tay. Hội Tam Điểm không phải là
tổ chức chính trị vì không chủ trương lật đổ chính quyền, cũng không
phải là một tôn giáo vì không loại bỏ tôn giáo nào và không đi chiêu
phục tín đồ, không phải giáo phái vì không theo hoàn toàn chủ thuyết
nào. Việc kết nạp hội viên rất khắc khe, đòi hỏi những tiêu chuẩn
nhất định về nhận thức trí tuệ, nhưng muốn ra khỏi hội thì hoàn toàn
tự nguyện và đơn giản. Người Pháp trong hội thường gặp nhau gọi là
huynh đệ hay thầy, viết tắt F(Frère) M(Maîte) và thêm ba chấm như đỉnh
tam giác đều nên Việt Nam dịch là hội Tam Điểm.
Ngược
lại với nhiều quan niệm tư tưởng của Đảng Cộng sản Pháp, nhưng hội
Tam Điểm cũng đề xướng phong trào khai hóa thuộc địa, truyền bá văn
minh đến thuộc địa. Đầu thế kỷ XX, thời hoàng kim của thuộc địa và
cũng là thời vàng son của hội Tam Điểm. Nhiều thành viên Tam Điểm
nắm chức vụ trọng trách ở thuộc địa và ở Pháp.. Đa số Bộ trưởng
Bộ Thuộc địa là Tam Điểm. Toàn quyền Đông Dương như Paul Doumer, Varenne
cũng đều là thành viên Tam Điểm. Thời kỳ này, hội Tam Điểm chính
thức chống đối chế độ thực dân Pháp, bênh vực nhân quyền cho người
bản địa. Tác giả Pierre Brocheux cho biết: “Tháng 1/1933. 350 người tham
dự đại hội đại biểu Tam Điểm tại Pháp nhân dịp này cùng nhau ký tên
một bản kháng nghị vì những người Đông Dương bị giam cầm”. Hội đề
nghị chính phủ chấm dứt mọi xâm chiếm thuộc địa, đề cao dân chủ, cho
phép phát triển giáo dục, bãi bỏ phân biệt người bản xứ, tôn trọng
nhân quyền tại các nước thuộc địa. Thậm chí sau này hội còn đề
nghị cho phép dạy học bằng tiếng Việt ở bậc tiểu học và chấp nhận
trẻ em bản xứ đến trường. Song song với việc phát triển mạnh các
thuộc địa, việc phát rộng ảnh hưởng của Tam Điểm đạt đến mức cao.
Các huynh đệ Tam Điểm lao vào mở chi nhánh ở bên các nước thuộc địa.
Năm 1901, họ đã thành lập Grand Orient với tên Nước Pháp và Thuộc
địa. Chi hội đầu tiên thành lập ở Sài Gòn năm 1879 với tên “Le Réveil
de l ́ Orient”, sau đó thêm ba chi hội nữa: “Les Fervents du Progrès”, “La
Ruche d ́Orient”, “Khổng Phu Tử”. Nhưng ban đầu chỉ toàn người Pháp tham
dự, khoảng đầu thế kỷ XX, hội bắt đầu kết nạp công chức bản xứ.
Bà Trần Thu Dung đã trích dẫn sách của Gibert David, Biên niên bí mật
về Đông Dương (1928-1946). Chronique secrète d ́ Indochine (1928-1946) Vol 2
nhà xuất bản L ́Harmattan 1994, tr. 35-36.
Gibert
David kể lại chuyện bắt giam Giáo tông Lê Văn Trung: «Những tay hiến
binh người đảo Corse không giấu nổi ngạc nhiên khi Lê Văn Trung xuất
hiện trước mình. Lê Văn Trung không phải trong chiếc áo dài và đội mũ
Giáo Tông (trang phục chức sắc riêng của đạo Cao Đài) mà trong bộ
complet châu Âu: complet – áo vét – gilet và chiếc mũ phớt, ngực đeo
huân chương Bắc Đẩu bội tinh, và một chiếc va li nhỏ trong tay. Tay
hiến binh dẫn ông vào nhà giam. Cả tỉnh Tây Ninh đều biết tay giám
đốc ngục người Toulouse có hàng râu lún phún là thành viên hội Tam
Điểm thuộc nhánh Lodge bản địa Grande-Orient. Tay này hoảng sợ khi Lê
Văn Trung mở rương nhỏ ra không nói một lời, lôi ra và mặc bộ trang
phục của một nhánh thuộc Hội Tam Điểm khi đến sinh hoạt riêng (tạp
dề, dây đeo, gươm đeo..) và ra tín hiệu khi bị hoạn nạn: “A moi, fils d
́Hiram”(Của tôi, con trai của Hiram). Ông đã buộc phải nói mật khẩu
của Tam Điểm khi gặp nguy hiểm”. Các thành viên Tam Điểm tự nhận mình
là những đứa con của Hiram, người kiến trúc sư tài ba xây cất đền
thờ Salomon. Nhưng tay hiến binh Pháp phớt lờ vẫn bắt giam. Ngày hôm
sau, một lệnh khẩn cấp do Pasquier (Toàn Quyền ĐôngDương) ký thả ngay
lập tức Lê Văn Trung, cùng với lời xin lỗi có sự nhầm lẫn đáng
tiếc.
HẾT TRANG 2
Lê
Văn Trung nhập hội từ trước khi nhập đạo Cao Đài. Ngoài Lê Văn Trung
còn thấy nhiều nhân vật Tam Điểm tham gia trong hàng chức sắc Cao Đài
như: Cao Triều Phát, Gabriel Gobron, Trương Kế An, Đặng Trung Trữ, Trần
Quang Vinh và ngay người đầu tiên mở đạo Cao Đài là Ngô Văn Chiêu cũng
thành viên Tam Điểm kết nạp vào năm 1919.
TS
Trần Thu Dung nghiên cứu đạo Cao Đài thấy có rất nhiều điểm tương
đồng với Hội Tam Điểm:
-Đạo Cao Đài do cầu cơ, tức do thần linh
sáng tạo ra. Tam Điểm cũng sử dụng cầu cơ và bàn quay để thông linh,
cũng tôn thờ Đấng tối cao.
-Huynh
đệ: cách xưng hô trong Cao Đài cũng như Tam Điểm. Đấng tối cao xưng là
Thầy, tín đồ là con. Giữa các tín đồ gọi nhau là huynh đệ. Ngay
thần linh giáng xuống cũng xưng hô huynh đệ. Cách xưng hô hiền huynh,
hiền muội không phân biệt tuổi tác trong đạo Cao Đài, là điều rất xa
lạ và bị đánh giá vô giáo dục nếu sử dụng không đúng lúc và đúng
chổ đối với người Việt Nam. Theo quy tắc của người Việt, người trẻ
không bao giờ gọi người già là huynh, muội.. Nhưng đối với đạo Cao
Đài đó là cách xưng hô thể hiện sự bình đẳng và thân ái trong gia
đình. Thực chất đây là cách xưng hô dùng trong Tam Điểm được đem áp
dụng vào Đạo Cao Đài.
- Mắt tượng trưng cho sự hiện diện khắp
nơi của Đấng anh minh trong nhà thờ Tam Điểm cũng được thờ trong Cao
Đài.
-
Những hình tam giác là dụng cụ tượng trưng đầy ý nghĩa của Tam Điểm
cũng được trang trí trên các cửa sổ kinh của các nhà thờ Cao Đài.
-Trong
hội Tam Điểm những chữ cái đầu tiên viết tắt của một từ là mật
khẩu để các thành viên Tam Điểm như F.. M.. hay A.. L.. để tự nhận
biết nhau. Tín đồ Cao Đài lần đầu tiên nhận ra Đấng tối cao qua những
chữ cái đầu tiên bí ẩn A, Á, Â. Qua nhiều buổi cầu cơ, các tín đồ
Cao Đài đầu tiên biết đó là Đấng Cao Đài.
-Chín
nàng thơ nghệ thuật trong đạo Cao Đài đã xuống gặp các nhà sáng lập
đạo mới ở những buổi mở đạo là điều xa lạ với văn hóa phương Đông,
nhưng lại gần gũi với những tín đồ đầu tiên mở đạo Cao Đài. (Nó có
nguồn gốc từ thần thoại Hy Lạp, chín nàng thơ của thần Apollon ở
núi Parnasse). Trong Tam Điểm chín nàng thơ nghệ thuật đã quyết định
việc kết nạp thành viên Tam Điểm. Họ là những người trọng tài đánh
giá khả năng tham gia hội Tam Điểm. Chín nàng thơ đã kết huynh muội
hay tỷ đệ với các nhà sáng đạo Cao Đài như Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh
Cư, Cao Hoài Sang. Theo các ông Cửu nương đã giúp các ông mở đạo mới
này. Ba ông trước khi lập đạo đã xây đàn cầu cơ để thông linh với cửu
nương. Ông Phạm Công Tắc đã Việt hóa Cửu Nương bằng những nhân vật
Việt Nam lịch sử lẫn người đương thời, nhân vật huyền thoại: Nhất
Nương Huỳnh Thiều Hoa, Nhị Nương Cẩm Tú nữ vương, Tam Nương Bà Thiên Mụ,
Tứ Nương Đoàn Thị Điểm, Ngũ Nương Liễu Hạnh công chúa, Lục Nương Hồ
Thị Huê (thánh nữ Trinh Đức, Jean d ́ Arc), Thất Nương Vương Thị Lễ,
Bát Nương Hớn Liên Bạch, Cửu Nương Công Nữ Ngọc Vạn.
-
Bậc thang lên dần đến bàn thờ, sàn lát ở giữa đá hoa trắng đen xen
kẽ và trên trần nhà đầy sao tỏa sáng giống như trang trí nhà thờ
Hội Tam Điểm. Theo Tam Điểm màu trắng đen tượng trưng cho đêm và ngày
tối và sáng, vật chất và trí tuệ.
-Quả địa cầu trong các nhà thờ Tam Điểm
tượng trưng cho tình huynh đệ khắp nơi trên trái đất có mặt trong nhà
thờ Cao Đài, cũng có con mắt và chỉ có cách vẽ khác nhau. Theo Gobon
ngay trong thánh thất Cao Miên cũng có quả địa cầu bằng giấy.
-
Chìa khóa để mở cửa vào thế giới huyền diệu mới, thế giới đại
đồng, huynh đệ bác ái. “Chìa đây thầy sẽ sắp trao. Trao mà lựa chọn
con nào chí tâm,” (bài giảng Chí Tôn) giống như vật tương trưng Hội Tam
Điểm.
-Trang
phục trắng là trang phục để tang ở Việt Nam. Đạo Cao Đài là trang
phục của các tín đồ. Màu trắng trang phục giống như trang phục thành
viên tập sự của Tam Điểm.
Đạo
Cao Đài tổ chức các buổi lễ cúng ngày mất các vị sáng lập đạo và
Giê Su, Lão Tử, Phật ngoài ra cũng có lễ cúng tổ công nghệ giống như
lễ cúng người thầy các nghề khác nhau của Hội Tam Điểm. Trong Kinh
Lễ dựa theo tài liệu cũ có thờ hai nhân vật Tam Điểm là Phạm Văn
Màng và Bùi Ái Thoại, ngày nay không ai còn biết là ai, nhưng nghề
nghiệp ghi rõ là maçon, thợ xây
HẾT TRANG 03
-Theo
Gobron Gabriel, trong Thánh thất Cao Đài ở Cao Miên, khi vừa khánh thành
đã có bia bằng đá cẩm thạch khắc tên những người có công với đạo.
Trong đó có những nhân vật nổi tiếng trong giới cầm quyền Pháp, đa
số là hội viên Tam Điểm, điều này được kiểm chứng thẻ hội viên trong
kho lưu trữ thuộc hội Tam Điểm Pháp.
-Theo
cuốn Lịch sử đạo Cao Đài của Lê Quang Vinh. Năm người Pháp đầu tiên
được phong sắc trong đạo Cao Đài chắc chắn là thành viên Hội Tam Điểm
Gabriel Gorbon chức Tiếp dẫn đạo nhơn, Charles Bellan chức Giáo hữu,
Gabriel Abadie de Lestrac chức giáo hữu còn hai người kia chính là vợ
hai vị Tam Điểm Gobron Marguerite chức Lễ Sanh, bà Félicien Challaye
chức Giáo sư. Trong năm người này Gobron được phong ngay một chức sắc
cao thứ hai chỉ sau Hộ pháp Phạm Công Tắc.
Ngày
13 tháng tám năm 1940, thống chế Pétain dưới ảnh hưởng Đức Quốc Xã,
ký ra lệnh đóng cửa các hội kín và tịch biên tài sản, cấm lãnh
đạo Tam Điểm làm việc trong công sở nhà nước, ngày 19-8-1940 Grand
Orient giải tán, các hội Tam Điểm khác nhau tại Pháp bị giải tán,
José Roi thuộc La Grand Loge bị Đức Quốc xã xử tử, sau đến Pierre
Brossolette và những người khác, thì tại Đông Dương ngày 4-6-1941 năm
vị chức sắc đứng đầu Cao Đài bị bắt và tù đày, trong khi đạo Hòa
Hảo và các tôn giáo khác tại Đông Dương không có việc gì.
2.
HỘ PHÁP PHẠM CÔNG TẮC LÀ AI ?
Phạm
Công Tắc sinh năm 1890 tại Bình Lập, tỉnh Long An. Cha mẹ gốc Tây Ninh-
nơi xây cất Tòa Thánh Tây Ninh, ông theo học ở trường Chasseloup Laubet.
Năm 17 tuổi, ông bỏ học tham gia một tổ chức bí mật gửi sinh viên đi
du học bên Nhật. Ông cũng toan tính đi nhưng việc bị chính quyền thuộc
địa phát giác, ông trốn về sống ở Tây Ninh. Ông làm nhân viên Sở
Thuế, thư ký tập sự, trở thành thư ký hạng ba, được bổ nhiệm đi làm
ở Trung Kỳ. Nam Kỳ và Campuchia. Ông được nhận xét là nhân viên tận
tụy cho chính quyền thuộc địa. Khoảng năm 1925, do tiếp xúc nhiều
buổi cầu cơ, ông trở thành đồng tử rất giỏi, chạm đến ngọc cơ là
chạy ngay . Ông từ bỏ đời công chức đi truyền đạo mới. Theo những
chức sắc Cao Đài, ông cùng bạn bè sáng lập ra Đạo Cao Đài khi ông 36
tuổi. Ông vốn có kiến thức về văn hoá Trung Quốc và đặc biệt thông
thạo tiếng Pháp và văn học Pháp được đào tạo từ nhỏ. Tài ăn nói
của ông đã thu hút được cảm tình của bạn bè. Ông trở thành người
đồng tử nổi tiếng và luôn có cơ gặp thần linh. Ông được thiên phong
qua cầu cơ trở thành Hộ pháp Chưởng quản Hiệp Thiên Đài. Theo đạo Cao
Đài, do Hộ pháp có xu hướng tham gia chống chủ nghĩa thực dân, ông
cùng một số chức sắc bị bắt đày đi bốn năm ở Madagascar. Trở về ông
tiếp tục phụng sự đạo Cao Đài, ông đã ký kết với chính quyền thuộc
địa đương thời lập quân đội Cao Đài, cùng Lê Quang Vinh đạo Hòa Hảo
và Bảy Viễn Bình Xuyên trong mưu đồ thành lập nước Nam Kỳ. Năm 1956
ông ẩn trốn sang Campuchia tránh sự truy nã chính quyền Tổng Thống Ngô
Đình Diệm thanh trừng các giáo phái, và ông mất tại đó ngày 17-5-1959.
Nhưng trước đó từ năm 1940, không thấy tổ chức cầu cơ, có thể do đi
đày, trở về già nua bệnh tật và tình hình chính trị không cho phép,
nên việc cầu cơ gần như chấm dứt cho đến nay.
Ông
Phạm Công Tắc, thư ký Sở Thương Chánh Sài Gòn từ nhân vật thứ 18,
đứng tên trong thư gửi Thống Đốc Nam Kỳ, đã vượt lên đứng hàng đầu
Cao Đài. Tư cách và hành vi của ông thế nào mà Ông Nguyễn Ngọc Tương,
tri phủ chủ quận Cần Giuộc, và ông Lê Bá Trảng, đốc phủ sứ Chợ Lớn
hai chức sắc quan trọng đã từ bỏ ông để thành lập Ban Chỉnh Đạo và
thành lập đạo Cao Đài tại Bến Tre và Đà Lạt ? Ông Phạm Công Tắc có
sai lầm gì mà hai ông phải chấn chỉnh lại đạo lý ?
Trang
151 trong Đạo Cao Đài và Victor Hugo, Ts Trần Thu Dung viết : “Giáo tông
và sáng lập viên đầu tiên của Cao Đài là Ngô Văn Chiêu, thành viên hội
Tam Điểm năm 1919 thuộc chi nhánh Eleusis. Ngô Văn Chiêu từ chối chức
Giáo tông, đồng ý nhường cho Lê Văn Trung, vì Lê Văn Trung cũng là
thành viên của tổ chức huynh đệ Tam Điểm.
Trang
71, bà Trần Thu Dung viết: “Qua truyền thuyết phong thánh, xét về mặt
niên đại các chức sắc Cao Đài đã nhầm lớn. Một vị thánh trên Bạch
Động Vân (Cung Trăng) không thể hóa thân cùng một lúc vừa Victor Hugo
sinh năm 1802, mất năm 1885. Trong khi Nguyễn Du (1765-1820) hai ông cùng
HẾT TRANG 4
sống
song song một giai đoạn từ 1802 đến 1820. Lúc Victor Hugo ra đời là lúc
Nguyễn Du, nhà thơ lớn Việt Nam 37 tuổi đang là một quan chức trong
triều Nguyễn. Nguyệt Tâm Chơn Nhơn không thể hóa thân thành hai người
một lúc ở hai nơi cách xa nhau hoàn toàn về địa lý, không thể năm 14
tuổi Victor Hugo sáng tác những vần thơ đẹp bên Pháp, và nơi xa xôi
khác Nguyễn Du cho ra đời tuyệt tác truyện Kiều bằng chữ Nôm..
Một
trường hợp nhầm lẫn khác về sự hóa thân. Nguyễn Bỉnh Khiêm
(1491-1585) chính xác hơn là theo gia phả ông mất ngày 28 tháng 11 năm
Đinh Dậu hưởng thọ 94 tuổi, là phụ trách Bạch Động Vân, hóa thân
xuống thành Hồng y Richelieu sinh ngày 9 tháng 9 năm 1585 và mất 1642,
và lần thứ ba hóa thân thành La Rochefoulcauld nhà văn Pháp (1613-1680)
. Vậy thì Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa mất, nhưng Hồng y Richelieu đã sinh ra
? Sau hai tháng Richelieu ra đời, nhà chiêm tinh học, nhà thơ Nguyễn
Bỉnh Khiêm mới từ giả cõi đời để lên Cung Trăng. Đồng thời nhà văn La
Rochefoucauld ra đời khi Hồng y Richelieu 29 tuổi, Richelieu mất khi nhà
văn này 38 tuổi, như vậy hai ông cùng chung sống 38 năm trên hành tinh
Trái Đất vậy thần linh Nguyễn Bỉnh Khiêm tự phân thân thành hai người
nổi tiếng cùng một lúc, và khi chuẩn bị chào Trái Đất, hồn ông đã
nhập vào Richelieu chăng ?
Theo
truyền thuyết luân hồi, mỗi người chỉ hóa kiếp từng đợt. Sau khi
mất, tùy theo đạo đức của người mất mới được hóa kiếp sau thành
gì. Việc ở đây có hiện tượng hồn bị chia thành hai thì quả là
chuyện nhầm lẫn rõ ràng. Chắc trong lúc ngồi cầu cơ các đồng tử
quá yêu và khâm phục những người nổi tiếng, lúc đồng tử mê man,
thánh giáng bất kỳ, không ngồi nghiên cứu trước niên đại. Nhưng điều
này cũng đem lại ý nghĩa thần linh, các linh hồn trong Cao Đài đều
sống phi thời gian, không gian và mạnh mẽ tới mức cao độ có thể hóa
thân thành hai ba người một lúc ?
Các
buổi cầu cơ chứng tỏ quan hệ rất mật thiết giữa Hộ pháp Phạm Công
Tắc và Victor Hugo. V. Hugo dành một cảm tình đặc biệt cho ông đồng
nổi tiếng và là linh hồn chính của đạo Cao Đài, thần linh V. Hugo đã
từng bảo vệ danh dự cho Phạm Công Tắc ở trong một số buổi cơ bút. V.
Hugo báo trước cho Phạm Công Tắc những kẻ đang toan tính phản Hộ pháp
và hãm hại nói xấu nhân vật này. Các chức sắc Cao Đài hãnh diện
là sự hóa thân của con cháu V. Hugo, họ sung sướng và tự hào nên rất
tuân thủ theo lời dạy của cha linh thiêng thánh V. Hugo. Đặng Trung Trữ
và Trần Quang Vinh chẳng có họ hàng gì với nhau, nhưng kiếp trước
đều là con của V. Hugo. Họ trở thành huynh đệ mật thiết trong đạo.
Cùng với Phạm Công Tắc, họ trở thành một nhóm cột trụ kết chặt
trong đạo. Sự liên kết được củng cố bằng cách giải thích kiếp trước
họ từng là anh em.”
LOUIS
VIDAL VÀ PHẠM THỊ TỐT
Trang 151 trong sách Đạo Cao Đài và Victor
Hugo, Ts Trần Thu Dung viết :
“Louis
Vidal thành viên Tam Điểm ngầm chính là người đứng đầu tổ chức
FB3-Indo (chính là một người trực tiếp giúp đỡ Ngô Văn Chiêu, sau là
thân cận của Phạm Công Tắc trong việc thành lập đạo Cao Đài. Vidal
càng trở nên thân tín và chỉ đạo Hộ pháp Phạm Công Tắc, khi kết hôn
Phạm Thị Tốt - con gái của Phạm Công Tắc. Phạm Thị Tốt vừa là
thành viên của FB3 vừa là Đầu sư của đạo Cao Đài. Chức Đầu sư là
chức sắc lớn nhất của phái nữ trong đạo Cao Đài. Bà đã biến Phạm
môn thành nơi tập họp kín của các thành viên FB3. Hộ pháp Phạm Công
Tắc chẳng nhẽ không có mặt ở Phạm môn hằng ngày làm việc, không
biết gì về hoạt động của tổ chức bí mật này. Phạm Thị Tốt cùng
Vidal tập họp nhiều trí thức giỏi với mục đích :“Giải phóng khỏi
ách thực dân Đông Dương và chống Đế quốc Nhật”. Chính vì thế khi Hộ
pháp bị đi đầy, bà cũng bị bắt giam, sau bị quản thúc. Nguyễn Phan
Long phụ trách Liên Hoa Tổng Hội - một chi nhánh là nhân chứng cho đám
cưới Vidal và Phạm Thị Tốt. Cha đỡ đầu Pierre Vidal (con trai của Vidal
và Phạm Thị Tốt) cũng chính là thanh viên của Tam Điểm. Cuộc đối
thoại lúc cảnh sát Pháp đến bắt bà chứng minh cảnh sát Pháp biết
FB3 lãnh đạo ngầm Đạo Cao Đài: “Ai thay cha bà đứng đầu đạo Cao Đài ?
Có phải chính bà không, người đẹp ?”(Gibert David. Biên niên bí mật
Đông Dương sđd tr.346.) Phạm Công Tắc và con gái cũng vì mục đích giải
HẾT TRANG 05
phóng
dân tộc khỏi thuộc địa tức chống chính quyền Pháp (thời Thống Chế
Pétain), nên bị bắt và đi đầy.
Có
một lần, Phạm Thị Tốt bị bắt, nhưng hai tiếng sau bà lại được thả
ra khi Giám Đốc an ninh (thành viên Tam Điểm) xác định bà là thành
viên FB3 với cái tên CD (hai chữ viết tắt Cao Đài) hay Pretty, Big (Cao
Đài). Cũng trong lúc bị bắt, Phạm Thị Tốt đã nói với tay cảnh sát
: “Chúng tôi thờ Giê Su, thánh Jeanne d ́ Arc và Victor Hugo. Các ông
cũng cho đó là những kẻ khả nghi hay sao ?” Điều này cùng với việc
Vidal bắt các chức sắc Cao Đài hôm trước lễ khánh thành Thánh thất
Cao Đài ở Campuchia bỏ vật thờ Svavikas của phương Đông thay vào đó
chân dung Victor Hugo chứng tỏ việc phong thánh Victor Hugo có ý kiến
quân sư của thành viên Tam Điểm. Theo Savani, lúc Vidal bắt bỏ hai biểu
tượng của đạo Phật (Chữ Vạn tương tự với biểu tượng của Đức Quốc
Xã nhưng ngược lại, có thể gây hiểu lầm.) các chức sắc không đồng
ý. Cuối cùng tất cả phải họp lại và đám đông chức sắc phải phục
tùng ý kiến của tay Tam Điểm trẻ Vidal, thay vào đó chân dung Victor
Hugo. Điều này chứng minh lúc đầu hội Thánh Hải ngoại không định thờ
Victor Hugo. Sức mạnh của hội Tam Điểm qua việc chọn thờ V. Hugo thay
biểu tượng đạo Phật chứng minh Cao Đài chịu sự lãnh đạo ngầm của
Hội Tam Điểm.
Phạm
Công Tắc đồng từ nổi tiếng cũng chính là tác giả những thông điệp
cầu cơ. Hồn không có tổ quốc, không có biên giới, nhưng hồn trở ngại
về mặt ngôn ngữ. Hồn cũng chỉ thạo tiếng Pháp và tiếng Việt. Hồn
các nhà văn Pháp cũng hiện về thường xuyên hơn hồn các nhà thơ Trung
Quốc. Mặc dù Trung Quốc có nền văn hóa lâu đời với những tác phẩm
đồ sộ nổi tiếng thế giới Việt Nam có một ngàn năm đô hộ, và một
ngàn năm độc lập cũng xử dụng chữ Hán trong học vấn thi cử, chiếu,
biểu, trình tấu triều đình. Pháp cũng chỉ chưa đầy một thế kỷ.(64
năm từ 1862 Pháp chiếm Nam Kỳ đến 1926 thời kỳ đạo Cao Đài ra đời).
Ngay vong linh Khổng Tử, Lão Tử, Lý Bạch cũng giao tiếp đồng tử bằng
tiếng Việt. Tôn Dật Tiên (1866-1925) hay Lý Bạch đều nói tiếng Việt
(hai nhân vật này không hề học tiếng Việt bao giờ). Đặc biệt các bài
giảng của Lý Bạch không viết bằng thơ Đường, mà viết bằng văn xuôi bằng
tiếng Việt, thậm chí bằng tiếng Pháp. Mặc dù chỉ là gieo vần cho
dễ nhập tâm quần chúng, nhưng rõ ràng vong linh gặp khó khăn khi làm
thơ Đường. Ảnh hưởng văn hóa Pháp một lần nữa được chứng minh qua
thông điệp của thần thánh ghi chép trực tiếp bằng tiếng Pháp tại
các buổi cầu cơ.
Đem
nhân vật Tôn Dật Tiên (1866-1925) một nhà cách mạng cận đại Trung
Quốc, làm Đại Tổng Thống năm 1911 khai sinh Trung Hoa Dân Quốc được xem
là Quốc Phụ và được CHND Trung Hoa xem là nhà cách mạng tiên phong,
đứng cầm nghiên mực tỏa sáng cho Victor Hugo viết, bên cạnh Nguyễn
Bỉnh Khiêm là một việc “cắt dán khập khểnh”, bất chấp thời gian,
không gian, địa lý chính trị, tư tưởng.. khiến ta nghi ngờ về trật tự
và sáng suốt trong đầu óc cụ Phạm Công Tắc. Một nhà văn Pháp, một
nhà tiên tri Việt Nam, và một nhà cách mạng cận đại Trung Quốc vừa
mới mất lúc lập đạo Cao Đài, mối quan hệ nào mà ông cho ba nhân vật
này thành thánh đứng chung với nhau.
Bức
hình vẽ ba vị thánh Victor Hugo, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Tôn Dật Tiên có
điều ngược ngạo với đạo lý các ngài : Victor Hugo chống lại đế chế
Napoléon, bị lưu đày 18 năm lại ăn mặc và đội nón Napoléon. Nguyễn
Bỉnh Khiêm từ quan để sống đời thanh đạm: ‘một mai, một cuốc một cần
câu..” lại mặc phẩm phục triều đình nhà Mạc. Tôn Dật Tiên hình ảnh
luôn luôn mặc âu phục Trung Hoa hiện đại cổ đại cán, ông lật đổ nhà
Mãn Thanh, lại ăn mặc như người Hán nô lệ Mãn Thanh, cạo đầu thắt
bính, đội mũ và cầm nghiên mực, cử chỉ chỉ dành cho các tiểu đồng.
Ngày
nay, tại nước Pháp khi giảng dạy hay xuất bản về tác phẩm Victor
Hugo, chẳng ai biết đến cái Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, cũng không ai nói đến
các tác phẩm do Nguyệt Tâm Chơn Nhơn hóa thân là Victor Hugo viết khi
lên đồng. Những bài thơ viết bằng tiếng Pháp cũng vụng về, gieo vần
khập khểnh, tư tưởng nông cạn, dù có vài ý tưởng bắt chước Victor
Hugo, nếu gán cho thơ Victor Hugo thì đây là thơ giả mạo, chỉ làm trò
cười cho thiên ha
HẾT TRANG 06
Còn
thơ Việt Nam, Phạm Công Tắc chỉ học qua bốn năm trung học có bằng
Thành Chung, ông học tiếng Việt qua bậc Sơ học Yếu lược, tức ba năm
đầu tiểu học, nên làm thơ vần điệu tư tưởng chỉ là những bài vè.
Ông viết trộn lẫn với những danh từ Thiên Tào, Bát Quái, Ngọc Hư,
Linh Tiêu Điện, Kinh Bạch Ngọc, Càn Khôn, Chí Tôn, Dạ Đài Thập Điện
Từ Vương, Thái Ất Thiên Tôn .. nghe là lạ ngộ nghĩnh lấy từ những
chuyện Tây Vương Mẫu hiến bàn đào, Phong Thần, Na Tra.. phân tích ra
thì chỉ là những ảo giác, hổn độn.
Về
đường chính trị, Phạm Công Tắc gặp những thất bại, ông lập lực
lượng vũ trang Cao Đài, tham gia cùng Bình Xuyên và Hòa Hảo trong thời
kỳ hổn loạn xáo trộn kinh hoàng của Miền Nam. Bảy Viễn Bình Xuyên
tổ chức sòng bạc gái điếm, tứ đổ tường làm giàu, là một nhân vật
vô đạo đức trong mưu toan thành lập nước Nam Kỳ, chống lại chính
quyềnViệt Minh lẫn chính quyền Việt Nam Cộng Hòa của Tổng Thống Ngô
Đình Diệm. Các phần tử tham gia vào Cao Đài thời kỳ không ít là
những hảo hán bên lề xã hội, họ tham gia vào các vụ án cướp bóc,
bắt cóc tống tiền ai không trả tiền thì bị lụi một dao, xã hội
miền Nam thời đó kinh hoàng với danh từ “đạo lụi”thời kỳ này cùng
Bình Xuyên của Bảy Viễn và Hòa Hảo của Ba Cụt. Ông Phạm Công Tắc đã
đem sinh mệnh bao nhiêu thanh niên theo đạo Cao Đài dìm trong máu bị cả
hai chính quyền Việt Minh và Việt Nam Cộng Hòa trừng trị. Sau khi
truất phế Quốc Trưởng Bảo Đại, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã mở cuộc
chiến bài trừ tứ đổ tường và các giáo phái. Tướng Dương Văn Minh, Lê
Văn Kim chỉ huy đã dẹp tan Bình Xuyên và quân đội các giáo phái, Bảy
Viễn bỏ chạy sang Pháp, Ba Cụt Hòa Hảo bị xử tử, tướng Trịnh Minh
Thế, Cao Đài về qui hàng bị ám sát chết từ sau lưng trong hàng ngũ
Cao Đài, trong trường hợp không rõ ràng, dư luận cho rằng ông bị ông
Phạm Công Tắc thanh trừng, và được chính quyền miền Nam đặt tên đường
tại Khánh Hội. Bị đánh bại Phạm Công Tắc phải bỏ chạy lên Cao Miên
trú ẩn và chết tại đó.
Trong
đạo Cao Đài không phải ai cũng đồng ý với ông Phạm Công Tắc, cả trong
mười hai người đầu tiên lập đạo mới đó là: Ngô Minh Chiêu, Vương Quang
Kỳ, Lê Văn Trung, Cao Hoài Sang, Nguyễn Văn Bản, Nguyễn Văn Hoài, Trương
Hữu Đức, Nguyễn Trung Hải, Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Nguyễn Văn
Quý, Lê Văn Giảng. Cùng với ba đồng tử phò cơ Hườn, Minh, Mân. Ngày 7
tháng 10 năm 1926. Đại đạo Tam Kỳ Phổ độ chính thức thành lập với
247 thành viên ký trình Tờ Khai Tịch Đạo gửi lên Thống đốc Nam Kỳ Le
Fol. Ngày 19 tháng 11 năm 1926, lễ ra mắt long trong khai đạo được tổ
chức tại chùa Từ Lâm (Gò Kén) Tây Ninh có sự hiện diện của quan
chức chính quyền Pháp. Đạo Cao đài chính thức trao quyền cho Lê Văn
Trung.
Sau
một thời gian do bất đồng ý kiến nội bộ những người sáng lập. Ngô
Minh Chiêu rút về Cần Thơ tự mình thành lập phái Chiêu Minh hay gọi
là Cao Đài bí truyền. Giáo hữu Lê Hữu Chính bỏ về Cai Lậy lập phái
Tiên Thiên năm 1927 phổ cập Đạo Cao Đài thông linh. Phối sư Thái Ca Thanh
năm 1930 cũng rút về mở phái Minh Chơn Lý tự nhận Cao Đài chân xác,
Năm 1934, Nguyễn Ngọc Tương và Lê Bá Trảng hai chức sắc lớn của Cao
Đài Tây Ninh về Bến Tre lập Ban Chỉnh Đạo. Ở Bạc Liêu, Ngọc Chưởng
pháp Trần Đạo Quang lập Chơn Minh Đạo. Bằng nhiều cố gắng để nối
kết lại các phái, Liên Hòa Tổng Hội ra đời do Phan Mạnh Trường,
Nguyễn Văn Phùng, Nguyễn Phan Long tổ chức. Tuy nhiên Tòa Thánh Tây
Ninh, khi Thượng Trung Nhật Lê Văn Trung mất, Hộ pháp Phạm Công Tắc trở
thành “giáo chủ” nơi đây. Ngoài ra còn có một số giáo phái khác như
Minh Sư, Minh Đường, Minh Lý, Minh Thiên và Minh Tân cũng có quan hệ đạo
Cao Đài từ khi thành lập. Một phần Đạo Cao Đài đã hợp tác cùng
Việt Minh, vùng Tây Ninh, Lộc Ninh về sau đã trở thành căn cứ địa của
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.
Cuộc
đời Phạm Công Tắc đã khép lại, các sử gia ngày nay và đời sau định
luận. Tìm hiểu về cuộc đời Phạm Công Tắc với những màn dàn cảnh
cầu cơ, với ngọc cơ là chiếc giỏ mây có cây cần, hai đồng tử chạm
tay vào, và người một khác ghi chép, chỉ vào bảng chữ cái Việt Nam:
A, Ă, Â, B, C, D, Đ.. mới được phiên âm tiếng Việt từ các nhà truyền
giáo đạo Thiên Chúa, Bồ Đào Nha từ thế kỷ 16 lại trở thành chữ
viết của những nhân vật chỉ biết chữ Hán, chữ Nôm các thế kỷ
trước. Chuyện chẳng có gì lạ ông Phạm Công Tắc đã lái cây cần chỉ
vào bảng chữ theo thơ văn ông soạn trước. Công
HẾT TRANG 07
trình
xây cất Toà thánh Tây Ninh chỉ là bản sao một ngôi nhà thờ Tây phương,
chỉ khác có trụ cột ông cho trang trí hình rồng phượng.
Thần
thánh của ông Phạm Công Tắc, được “cắt dán” từ các nguồn khác nhau
như trong Cửu Nương.
Nhất nương Giao Trì Cung có tên Huỳnh
Thiều Hoa, cai quản gìn giữ sự cân bằng an toàn cho Ngạn Uyển nơi gieo
trồng các chân nguyên hoa tượng trưng cho sự sinh tồn tinh tấn chúng
sinh khắp Tam giới, nhưng Huỳnh Thiều Hoa là ai thì không có điển tích
nào cả. Nhị nương Diêu Trì Cung có tên là Jyeshthâryâ, người Thủy Chân
Lạp, cháu ba đời quốc vương Cao Miên Indrakoleca cai trị vùng đất tỉnh
Kratié đồng thời với vua Jayavarnam II (802-850). Tam Nương bà Thiên Mụ
chỉ có trong giấc mơ của Chúa Nguyễn Hoàng khi vào đến Huế, Cửu
nương Công chúa Ngọc Vạn là người được kết hôn với vua Cao Miên, xin
cho người Việt vào định cư tại Đồng Nai, chẳng có sáng tác gì và
tác giả cũng chẳng biết gì nhiều về công chúa Ngọc Vạn cũng được
phong làm thi thần. Lục nương là Jean d ́ Arc anh hùng Pháp chống Anh
xâm lăng, ông phong tên là Thánh nữ Trinh Đức, nhưng tên Hồ Thị Huê từ
đâu ra thì không biết. Thất nương Vương Thị Lễ, một người có liên hệ
với chức sắc Cao Đài, có hai kiếp, kiếp trước bên Tàu thì nghe hơi
hướng như chuyện Hồng Lâu Mộng, cô gái con quan đại thần yêu chàng thư
sinh và chết sớm; kiếp sau đầu thai trong một gia đình họ Vương ở Chợ
Lớn sinh ngày 8-1-Canh Tý (1900) thân phụ là Vương Quang Trân làm Đốc
Phủ Sứ, thân mẫu là Đỗ thị Sang con Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương mất ngày
28-11-1918 hưởng dương 19 tuổi, mộ nằm trong khuôn đất gia đình Đỗ Hữu
Phương, năm 1968 được lấy cốt hỏa thiêu, đất xây chung cư Nguyễn Thiện
Thuật. Vương Thị Lễ thường hiện ra trong các buổi cầu cơ của ông Phạm
Công Tắc. Bát nương Hớn Bạch Liên là hoa sen trắng, giáng trần thời
thái thú Tô Định đánh Hai Bà Trưng, còn có tên Hồ Để, thì chẳng có
tài liệu sách vở nào có thể tra cứu, không biết Phạm Công Tắc lấy
tên Hồ Để từ đâu ?. Ngũ Nương là Liễu Hạnh Công Chúa, Đoàn thị Điểm
có viết truyện Vân Cát Thần nữ về Liễu Hạnh, ông Phạm Công Tắc đã
ra đòn tóm thâu tục thờ Mẫu tại Nam Định vào trong thần thánh của
mình. Mỗi một cửu nương còn có tên lạ, cần tra cứu thêm với tên
người thân thuộc và các đệ tử thân tín, vì mỗi vị còn hóa kiếp
nhiều đời từ xưa cho đến thời đại ông.
Đạo
Cao Đài phát xuất từ chủ tâm tốt của những người đương thời thấy
đạo đức suy vi, cái thời nhà thơ Tú Xương viết: “Nào có ra gì cái
chữ Nho, Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co, sao bằng đi học làm thầy
Phán, tối rượu sâm banh, sáng sữa bò.”. Đạo Cao Đài được khởi xướng
bởi các thầy thông, thầy phán, thầy ký làm việc cho chính quyền
thực dân Pháp trong buổi giao thời. Từ chủ tâm tốt chấn hưng đạo lý,
và tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên từ thời Lý Trần, họ nắm lấy thời
cơ có sự ủng hộ của những nhân vật Tam Điểm, chống đối chính sách
thực dân lẫn Giáo Hội Thiên Chúa Giáo, rồi do những kiến thức học
tập nhà trường Pháp về Victor Hugo, họ thêm vào Jésus cùng với Phật,
Khổng, Lão, nhưng cũng chưa đủ, họ thêm vào những cung điện Diêu Trì
chỉ có trong huyền thoại Trung Quốc trên cõi trời, (thay cõi núi
Parnasse thần thoại Hy Lạp, nhưng bỏ đi thần Apollon), chỉ còn Chín vị
nữ thần truyền thi hứng, rồi thêm nhà tiên tri Nguyễn Bỉnh Khiêm trông
coi Cung Trăng, nhà cách mạng Tôn Dật Tiên vừa mới mất năm 1925, được
người Trung Quốc tôn sùng là tổ phụ. Ảnh hưởng Ấn Độ các thần
thánh có nhiều kiếp khác nhau họ đem tất cả những người nổi tiếng
mà họ biết vào các buổi cầu cơ: Lý Bạch, Nguyễn Du, Hồng Y
Richelieu, Jean d ́Arc, Pasteur, Flamarion, La Fontaine, Aristide Briand, Allan
Kadec..
Từ
năm 1968, NASA Hoa Kỳ đã đưa phi hành gia lên cung trăng, chẳng ai thấy
nhà tiên tri Nguyễn Bỉnh Khiêm cai trị Bạch Động Vân, kiến thức nhân
loại ngày nay đã đẩy lùi hiểu biết về không gian đến 17 triệu năm
ánh sáng. Nhìn lại những điều tin tưởng của Giáo Tông Phạm Công Tắc
chỉ là những bịa đặt, huyền thoại, phản khoa học. Những người tin
đạo Cao Đài sẽ rao giảng gì cho thế hệ trẻ con cháu ngày nay, tại
Mỹ, Pháp.. và tại Việt Nam ? Các tôn giáo đặt niềm tin đạo đức nơi
một đấng sáng tạo vũ trụ rơi vào khủng hoảng. Nhà thiên văn học
Trịnh Xuân Thuận ba đầu theo hội Tam Điểm ngày nay nói đến một thượng
đế đồng hồ, giờ đã trở về với Phật Giáo. Phật Giáo không đặt niềm
tin nơi thiên thần, số mệnh mà đặt niềm tin, đạo đức nơi sự giác ngộ
tinh tấn của chính mình “tự thắp đuốc lên mà đi”. Khổng Giáo nhìn
thiên thần với cặp mắt: “kính nhi viễn chi”, kính trọng
HẾT TRANG 8
nhưng
xa lánh, ngài chú trọng đến mối tương quan chính trị trong xã hội,
quan hệ Quân Sư Phụ: vua tôi, thầy trò, cha con, vợ chồng. Nhưng rồi xã
hội thế giới đổi thay không còn vua, dân chúng tự do bầu người lãnh
đạo, tự do cá nhân, tự do xã hội, tự do thông tin với những phương
tiện như internet ngày nay đã phá bỏ bao bức tường muốn khép kín,
độc tôn.. Lão Tử đi ở ẩn ra cửa ải chỉ để lại quyển Đạo Đức Kinh,
người đời vẽ vời thành ra một tôn giáo thần tiên.
Nhìn
lại, Hộ Pháp Phạm Công Tắc là người đã quơ quàng bao nhiêu thứ củi
để nhóm lên ngọn lửa Cao Đài, ông không sợ người khác chê cười, gặp
cơ hội nào thì cũng tóm lấy, gặp Tam Điểm thì làm theo Tam Điểm,
gặp thời cơ một nhóm thực dân, muốn lập Nam Kỳ Quốc, thì ông chạy
theo chủ trương lập nước Nam Kỳ, tách rời ra khỏi nước Việt Nam,
chống Việt Minh lẫn Việt Nam Cộng Hoà của Tổng Thống Ngô Đình Diệm,
ông bị xem là “giặc” cùng với giặc Bình Xuyên của Bảy Viễn, một
thời gieo thảm họa tại miền Nam, ngay từ thời ông còn sống bao nhiêu
người bạn Cao Đài không chịu nổi ông, đã bỏ ông để thành lập hệ
phái riêng. Ngày nay khuynh hướng muốn phong thần, phong thánh cho ông
cần suy nghĩ lại. Khác biệt cụ Phan Chu Trinh chủ trương khai dân trí,
chấn dân khí, hậu dân sinh. Cải cách dân chủ, chấn hưng công thương
nghiệp là công việc phải làm và cần làm tiếp tục trong mọi thời.
Còn những việc phong thần phong thánh bừa bãi rồi tự xưng mình hữu
thần chống với vô thần không làm cho dân Việt Nam sáng suốt hơn mà
chìm đắm trong u mê, tăm tối. Các thế hệ con cháu ngày nay trong nước
và ngoài nước, trình độ dân trí đang lên, học vấn và sự nghiệp tranh
đua cùng thế giới, sẽ nghĩ gì về những trang lịch sử của Đạo Cao
Đài do Hộ Pháp Phạm Công Tắc “cắt dán” ?
Paris,
ngày 10-10-2025
TS
PHẠM TRỌNG CHÁNH
Tiến
sĩ Khoa Học Giáo Dục. Viện Đại Học Paris Sorbonne.