Trang

Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2024

5457. NGHI TIẾT CÚNG ĐẠI ĐÀN, TIỂU ĐÀN (1930)

 

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
        3ÈME AMNISTIE DE ORIENT

* * *

NGHI TIÊT ĐẠI ĐÀN – TIỂU ĐÀN

Tại Tòa Thánh và Thánh Thất các nơi
Canh Ngũ Niên 1930
 Imp. Chơn Truyền Ấn Quán Tòa Thánh Tây Ninh

LỜI TỰA.

* * *

Lễ là một việc rất trọng hệ, vì là cái hình thể của nền Đạo phô bày ra trước mặt người. Chư Đạo hữu cần phải đề công xem sóc nhắc nhở nhau mà gìn giữ tư cách trong mỗi khi hành lễ cho trang hoàng, hầu tỏ ra tấc lòng thành kỉnh của mình cùng Đức Chí Tôn và chư Tiên Phật Thánh Thần, lại cũng là một phương châm về đường phổ độ nữa. 


Mỗi khi chúng ta hành lễ thì người ngoại đạo sẵn ý xem vào mà phân biệt tà chánh một ít của nền Đạo trong đó, vì Đạo là việc nhiệm mầu huyền bí rất sâu xa, người ngoài nào thấu đặng, duy có chăm nom cách cử chỉ của chúng ta trọng kỉnh các Đấng thế nào thì đủ cho người vẽ ảnh Đạo ra thế nấy mà thôi. Nhạc cũng là một việc cần yếu, vì là phương làm cho đầm ấm tao nhã, cốt đề dìu dẫn giúp cho thành Lễ, ra vẻ long trọng, vì đã che lấp các việc xao động trong cơn hành lễ, trên thì hiển cái vẻ tiêu tao phù trầm cho các Đấng, dưới lại làm cho chúng ta, vì nghe đặng cái giọng tao nhã nhặt khoan, hoặc có lúc vì tiếng nhạc trổi mà lòng ta vẫn hân hoan mà quên hẳn cái mỏi mệt trong cơn hành lễ, hoặc có khoản vì cái thức phù ba của giọng đờn mà làm cho ta yên tịnh, mới có thề thiền tâm vọng cầu các Đấng cho thấu đáo. Có câu phương ngôn của bậc hiền triết miền Ầu rằng: “La musique adoucit les moeurs” lại có nói rằng: “Nếu muốn biết sự tấn hóa của một sắc dân, sau sẽ tỏ nên thế nào thì duy có xem trong nét văn chương và nghe giọng nhạc của sắc dân ấy củng đủ hiểu trước.” Huống chi Đấng Chí Tôn ra công khó nhọc khai sáng cho ta một nền Đại Đạo như vầy, lại dìu dẫn ta từ bước mà ta lại chẳng để hết tâm chí chấn chỉnh nghề nhạc cho hoàn toàn, hầu gìn giữ đường tấn hóa cho nền Đạo sao?

Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 20–4–Kỷ Tỵ.

Lễ Nhạc Quân CAO MỸ NGỌC.

ĐẠI ĐÀN NGHI TIẾT
 Tại Tòa Thánh và Thánh Thất các nơi.

1. Tịnh túc thị lập – Lễ sĩ và mấy người có phận sự phải vô trước khi Lễ sĩ khởi xướng, thì khởi xây trống cơm và đờn bài Ngũ Đối Hạ cho đến Lễ xướng Khai Lôi Âm mới dứt. Các Đạo hữu đều lặng lẽ đứng hầu cho nghiêm trang đặng khởi hành lễ.

2. Chấp sự giả các tư kỳ sự – Những Đạo hữu có trách nhậm nơi đàn đều phải dự phòng trước, tùy theo phận sự của mình.

3. Cung thành thứ tự Chức sắc nhập đàn – sắp một cặp Lễ sĩ đặng đi hai bên, chính giữa thì Chức sắc HTĐ khởi đẫn đầu, rồi kế Hộ Pháp, Thượng Phẩm Thượng Sanh, kế Chưởng Pháp, Đầu Sư, Phối Sư, Giáo Sư và Giáo Hữu tiếp theo. Khi vào cửa Tòa Thánh, chừng nhập đàn thì tùy bên trái mình mà thẳng tới điện, đoạn vòng qua phía mặt, nhưng khi bước ngang qua trước bửu điện, đủ 3 vị day vô mà bái Đức Chí Tôn, rồi thì trở đi xuống bàn Hộ Pháp, Chức sắc HTĐ lập vị mình, còn Chức sắc CTĐ thì lại vòng qua phía trái mình nữa mà trộn trở lên đứng hai hàng hai bên y theo thứ tự. Chức sắc nữ phái tiếp theo sau, nhưng phải nhập đàn phía mặt của mình, rồi qua phía trái, đi ngang bửu điện đủ 3 vị thì cũng day vào xá Đức Chí Tôn 1 xá, đoạn bước luôn qua hữu ban rồi thẳng qua mé mặt mình mà vòng xuống khỏi Ngoại nghi mới đặng trở qua mà bước lên, rồi cũng tùy thứ tự mà phân hai hàng hai bên.

4. Lôi Âm Cổ khởi – Đợi đánh 3 dùi trống khởi đầu rồi đờn đưa hơi theo hết 4 câu kệ sau đây thì dứt đờn.

Lôi Âm Thánh Cổ triệt hư không,
Truyền tấu Càn khôn thế giới thông.
Đạọ pháp đương kim dương Chánh giáo,
Linh Quang chiếu diệu Ngọc Kinh Cung.

Dứt mỗi câu, chầu một dùi, đoạn lôi 12 điểm, rồi đánh tiếp 3 hồi, khởi đầu chậm sau đổ giót, mỗi hồi 12 chập, mỗi chập 12 dùi, cộng 3 hồi là 432 dùi, dứt rồi lại 3 dùi, cách đánh liên dùi như trống bát nhã, chẳng nên đánh chậm mà mất ngày giờ.

5. Bạch Ngọc Chung minh – Khởi đánh 3 dùi rồi điểm chung, kệ 4 câu:

Thần Chung thinh hướng phóng Phong đô,
Địa Tạng khai môn phóng xá cô.
Tam Kỳ vận chuyển Kim Quang hiện,
Sám hối âm hồn xuất u đồ
.

Mỗi câu 1 dùi, rồi cũng đánh y như trống vậy.

6. Nhạc tấu Quân Thiên – Nhạc xổ 3 hồi, đánh Nghinh Thiên, dứt thì xây trống mà đờn 7 bài Bắc. Đoạn nầy là lúc Đấng Chí Tôn và chư Phật Tiên giáng, chư Đạo hữu phải tịnh tâm mà cầu khẩn, chẳng nên xao động.

7. Chỉnh sát cúng phẩm – Song đăng đi bắc và một vị Chức sắc đến nơi điện, bái rồi trở xuống, 3 ban đồng y như vậy.

8. Nội nghi Ngoại nghi tựu vị – Bửu điện Nội nghi, 3 vị niệm hương vào đứng giữa; Ngoại nghi 3 vị đảnh lễ. – Tả ban, Nội nghi 3 vị niệm hương, Ngoại nghi 3 vị đảnh lễ. – Hữu ban, Nội nghi 3 vị niệm hương, Ngoại nghi 3 vị đảnh lễ. Nhạc cứ xây tá đờn bài Hạ.

9. Thiên phong dĩ hạ các tư kỳ vị – Chức sắc CTĐ T hiên phong và tín đồ lưỡng phái tùy theo phẩm vị mình mà đứng tiếp theo và phải chừa đàng sau cho đồng nhi nam nữ quì đọc kinh.

10. Nghệ hương án tiền – Xây tá đờn Ngũ Đối Hạ cho đến khi lễ sĩ day vô thì dứt, cả tam ban lễ sĩ đăng và đài đều bước lên Ngoại nghi. Khi bước lên cả đăng và đài đều phải đứng day vô Ngoại nghi.

11. Giai quì – Nhạc đổ hai hồi đầu cho dài, đợi chư Chức sắc xá 3 xá rồi quì lấy dấu Phật Pháp Tăng và cúi đầu 5 lần niệm Đức Chí Tôn, Quan Âm Bồ Tát, Lý Thái Bạch, Quan Thánh và chư Phật chư Tiên thì trống đổ giót lần ba.

12. Phần hương – Đánh trống thét cho đến khi lễ sĩ đứng dậy, rồi xây tá đờn bài Hạ luôn. Còn Chức sắc quì Ngoại nghi đốt hương, sắp trầm qua lư hương, phải xá 3 xá, đoạn lễ sĩ đứng dậy.

13. Điện hương – Trống đổ 3 hồi cho lễ sĩ cung tay lên, còn đờn thì cứ tiếp theo hoài cho lễ sĩ dưng đến Nội nghi, day vô giữa thì dứt. Còn lễ dưng từng hương phải đi bài bắc, nghĩa là ký rồi bước liền, không đợi chầu trống.

14. Quì – Nhạc đổ rồi tiếp đánh thét, lễ sĩ sửa soạn xướng thì dứt. Khi lễ sĩ điện tới Nội nghi rồi qui thì cặp lễ rước lễ cũng quì một lượt đặng rước lễ.

15. Thành kỉnh tụng Niệm Hương Chú – Đờn chiếu theo Kinh, trống tùy chỗ có phẩm vị của các Đấng mà điểm. Lễ sĩ đợi đồng nhi đọc kinh rồi sẽ đứng dậy, còn đọc kinh thì để cho toàn đồng nhi tụng mà thôi.

16. Thượng hương – Nhạc đổ rồi đánh luôn trống thét cho đến khi lễ sĩ trở về tới bàn Hộ Pháp thì dứt. Khi lễ sĩ đứng dậy, cặp lễ rước lễ dâng vô bửu điện, còn cặp đăng thối 3 bước, còn cặp đài, thứ nhứt bước ra, thứ nhì đứng đó nhúng, thứ ba bước vô rồi đăng đài day mặt xuống bàn Hộ Pháp để tay xuống phía ngoài, kỷ chưn trong, đi xuống.

17. Cúc cung bái – Trống lạy hay là lập ban (đoạn nầy tày ý, là vì nếu có song thỉ thì đánh rập ban, bằng kèn đại thì đánh trống lạy) Lạy 3 lần, mỗi lần 4 gật, là 12 lạy, mỗi lạy niệm: Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát

18. Thành kỉnh tụng Khai Kinh Chú – Đờn theo Kinh trống điểm tùy theo mấy chỗ có phẩm vị các Đấng, đồng nhi nam nữ tụng Kinh.

19. Thành kỉnh tụng Ngọc Hoàng Kinh – Đờn theo Kinh, trống điểm tùy theo mấy chỗ có phẩm vị các Đấng, đồng nhi nam nữ tụng Kinh.

20. Cúc cung bái – Trống lạy hay là rập ban. Ba lần gật bốn (12), mỗi lạy niệm câu: Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bổ Tát Ma Ha Tát

21. Thành kỉnh tụng Phật giáo Tâm Kinh – Đờn theo Kinh, trống điểm tùy theo mấy chỗ có phẩm vị các Đấng, đồng nhi nam nữ tụng Kinh.

22. Cúc cung bái – Trống lạy hoặc rập ban, lạy 3 lần, mỗi lần 3 gật (9), mỗi gật niệm câu: Nam Mô Nhiên Đăng Cổ Phật Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

23. Thành kỉnh tụng Tiên giáo Tâm Kỉnh – Đờn theo Kinh, trống điểm tùy theo mấy chỗ có phẩm vị các Đấng, đồng nhi nam nữ tụng Kinh.

24. Cúc cung bái – Trống lạy hoặc rập ban, lạy 3 lần, mỗi lần 3 gật (9), mỗi gật niệm câu: Nam Mô Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.

25. Thành kỉnh tụng Thánh giáo Tâm Kinh – Đờn theo Kinh, trống điểm tùy theo mấy chỗ có phẩm vị các Đấng, đồng nhi nam nữ tụng Kinh.

26. Cúc cung bái – Trống lạy hoặc rập ban, lạy 3 lần, mỗi lần 3 gật (9), mỗi gật niệm câu: Nam Mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

27. Cung hiến Tiên hoa – Xây tá đờn Ngũ Đối Hạ, các lễ sĩ đăng đài đều bước lên Ngoại nghi rồi day vào giữa.

28. Quì – Trông đổ giót rồi dứt đờn, lễ sĩ đăng đài cung tay lên, đều quì xuống.

29. Chinh Tiên hoa – Trống thét, Chức sắc Ngoại nghi sửa hoa tề chỉnh rồi lễ sĩ đứng dậy, đầu day vô bửu điện, để tay xuống mé ngoài mà đợi.

30. Điện Tiên hoa – Trống đổ 3 hồi giót, vừa thấy lễ sĩ cung tay rồi thì tiếp xây trông đờn bài Đảo Ngũ Cung, hễ đờn vô xong thì chầu trống khởi đầu cho lễ bước, rồi cứ xây đến 7 lá chầu lá 8, nghĩa là đủ một lớp đờn Đảo 8 câu thì chầu tiếp như vậy cho đến khi lễ sĩ dâng lễ tới Nội nghi, day vô giữa thì thôi chầu, nhưng cứ đờn tiếp hoài. (Ấy là Thánh giáo của Đức Chí Tôn.) Lễ sĩ cung tay lên đợi dừng câu chầu trống, iihạc khởi đầu thì cũng khoát cẳng bìa) tả khoát tả, hữu khoát hữu), lễ phải đi chữ Tâm. Bước lễ phải tùy câu trống Nhạc chầu 7 lá mà đi cho rập ràng (khoản nầy Đức Thái Thượng Lão Quân hằng dặn phải tập lễ cho rập). Đồng nhi phải tùy bước đầu của lễ mới khởi thài, nhưng phải có người thông thạo dìu dắt đặng phân đường cho đồng nhi thài thế nào trong 4 câu lễ sĩ tới bửu điện thì vừa dứt bài đặng lễ day vào giữa. Người dắt đồng nhi thài phải hiểu biết câu đờn cao thấp đặng tùy cao thấp tùy giọng khởi đầu cho đồng nhi tiếp theo, mới rập ràng với đờn, bằng không hiểu thì làm trái giọng thêm loạn đàn. (Việc nầy rất khó, cần phải hỏi nhiều mới đặng).

31. Quì – Trống đổ, đờn Đảo Ngũ Cung, lễ sĩ đăng đài và cặp tiếp lễ đều quì. Chức sắc Nội nghi tiếp bình hoa, xá 3 xá rồi giao lại cho lễ sĩ tiếp lễ.

32. Thượng Tiên hoa – Trống đổ rồi nhịp thúc đặng đờn lớp Đảo Ngũ Cung cho tới lễ sĩ về tới bàn Hộ Pháp mới dứt. Khi lễ sĩ đứng dậy, cặp lễ rước dâng vô bửu điện, còn cặp đăng thối 3 bước, cặp đài: thứ nhứt bước ra, thứ nhì đứng nhúng, thứ ba bước vô, rồi đăng và đài day mặt xuống bàn Hộ Pháp, để tay xuống phía ngoài, ký chưn trong đi xuống.

33. Cúc cung bái – Trống lạy hoặc rập ban, 1 lạy 4 gật, khi nào lạy 1 lạy 4 gật thì cứ niệm câu: Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.

34. Cung hiến Tiên tửu – Xây tá đờn bài Hạ, hành lễ giống như khoản dâng Hoa.

35. Quì – Trống đổ rồi dứt đờn. Hựu....

36. Chuốc tửu – Trống thét Hựu....

37. Điện tửu – Trống đổ 3 hồi xây đờn Đảo Ngũ Cung rồi chầu khởi bước đầu, vân vân... Hựu. :…

38. Quì – Trống đổ giót, đờn cứ tiếp Đảo Ngũ Cung. Hành lễ giống như khoản dâng Hoa.

39. Thượng Tiên tửu – Trống đổ giót rồi nhịp thúc đờn lớp trống đảo cho lễ sĩ về.... Hựu....

40. Cúc cung bái – Trống lạy hoặc rập ban, 1 lạy 4 gật.

41. Cung hiến Tiên trà – Xây tá đờn Ngũ Đối Hạ, hành lễ giống như khỏan dâng Hoa.

42. Quì – Trống đổ giót rồi dứt đờn. Hựu....

43. Điểm trà – Trống thét... Hựu....

44. Điện trà – Trống đổ 3 hồi giót, xây đờn Đảo Ngũ Cung, rồi chầu đặng khởi bước lễ... vv... Hựu....

45. Quì – Trông đổ giót, đờn cứ tiếp Đảo Ngũ Cung… Hựu

46. Thượng Tiên trà – Trống đổ giót rồi nhịp thúc đờn lớp trống đảo cho lễ sĩ về. Hựu....

47. Cúc cung bái – Trống lạy hoặc rập ban, 1 lạy 4 gật.

48. Nghệ đọc Chúc sở – Trông thét cứ đánh cho đến lúc khởi xướng câu tới dứt. Cặp lễ sĩ đăng bước lên Nội nghi rồi day vào giữa.

49. Quì – Trống đổ giót rồi đánh thét. Cặp lễ sĩ đăng quì, Chức sắc chứng đàn dâng sớ chí mày, niệm Đấng Chí Tôn và Tam Trần, xá rồi giao cho Chức sắc đọc.

50. Đọc chúc – Dứt trống, rồi phải lóng tai nghe mà điểm mỗi phẩm vị các Đấng, Chức sắc khởi đọc, khi đọc tới phẩm vị các Đấng thì cúi đầu, mỗi lần cúi phải đợi trống điểm đứt mới tiếp, hoặc có câu khác tùy chỗ phải cúi đầu, thì phải đọc cho dài hơi, mới phải cách thức và tiện cho cả Đạo hữu nghe biết mà cúi đầu một lượt, khỏi lộn xộn, đọc rồi thì xá và giao lại cho vị chứng đàn.

51. Phần chúc – Đổ ba hồi rồi tiếp bài nghinh Thiên, đợi lễ đăng về đến bàn Hộ Pháp thì dứt. Xá 3 xá rồi đốt sớ.

52. Cúc cung bái – Trống lạy hoặc rập ban, lạy 3 lần, mỗi lần 4 gật, niệm: Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát

53. Thành tâm tụng Ngũ Nguyện – Trống tịch theo câu nguyện rồi điểm mỗi khi dứt câu, đờn hơi theo rao Nam Xuân, đồng nhi nam nữ tụng dứt mỗi câu thì cúi đầu, rồi phải đợi trống điểm dứt sẽ khởi câu khác (thế nào cũng phải có một vị hiểu biết giọng đờn mà dìu dắt cho đồng nhi tiếp giọng mà theo mới rập)

54. Cúc cung bái – Trống lạy hoặc rập ban, cho đến lúc xướng câu tới, để khi đứng dậy xao động có tiếng trống lấp. Lạy 3 lạy, mỗi lạy 4 gật (12), mỗi gật niệm Đức Chí Tôn, đoạn cả Đạo hữu đều đứng dậy (Hưng bình thân) nhưng cũng còn nơi vị mình.

55. Cung thành thứ tự phân lập tam ban – Trống thét đánh tới, chẳng nên dứt vì e lúc lui ra hằng xao động mất nghiêm. Chức sắc dĩ hạ sắp bài ban như hồi mới nhập đàn.

56. Hiệp Thiên Đài Chức sắc nhập Nội nghi – Trống thét, cả Chức sắc Hiệp Thiên Đài nhập Nội nghi.

57. Cúc cung bái (Hưng bình thân) – Trống lạy hoặc rập ban, ba lạy gật bốn (12) cũng phân ban nơi Nội nghi.

58. Lễ thành – Một đoạn trống thét, dứt. Dộng 3 hồi Bạch Ngọc Chung chậm chậm. Cả Chức sắc bên nào tùy bên nấy lui ra đến sau Bàn Hộ Pháp, mới nhập đôi lại mà ra cửa Tòa Thánh. Chức sắc Hiệp Thiên Đài đi đầu kế Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh, kế Chưởng Pháp, Đầu Sư, Chánh Phối Sư, vv... Kế Chức sắc nữ phái, tín nữ, đồng nhi nữ, kế thiện nam, đồng nhi nam, vv... Các lễ sĩ và nhạc công phải ở lại giữ đàn cho yên tịnh và các người có trách nhiệm cũng vậy, đợi cho ra dứt rồi thì mình tiếp vào lạy. Đoạn cũng đi hai bên bước ra đến sau Bàn Hộ Pháp, hiệp hàng đôi lại mà đi.

 * * *

Mấy chỗ có nêu số, xin giải nghĩa dưới đây:

KHOẢN THỨ 6: Nhạc tấu Quân Thiên.

 Tùy theo Thánh giáo Đấng Chí Tôn, khi dứt Nhạc, phải xây trống mà đờn cho đủ 7 bài: Xàng xê, Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ, Long đăng, Long ngâm, Vạn giá, Tiểu khúc. Không phép đờn bài chi khác hơn. Nếu không thể đờn đủ 7 bài thì đờn 3 bài: Ngũ đối hạ, Long đăng, Tiểu khúc, hoặc 3 bài Ngũ đối hạ mà thôi.

KHOẢN THỨ 10: Nghệ hương án tiền.

 Ngoại nghi đây gọi là bàn hương án, nên xướng câu nầy nghĩa là bước lên trước bàn hương án, không nên lầm tưởng rằng: “Bưng hương lên bàn án” thì sái, vì có câu: Nghệ đọc chúc sớ, nghĩa là bước lên chỗ đọc sớ vậy.

KHOẢN THỨ 15: Thành kỉnh tụng Niệm hương chú.

Có lời Thánh giáo dạy ngày 11 Septembre 1926: Hai vị Chức sắc nữ phái dạy 36 đồng nhi nữ, còn Chức sắc nam phái dạy 36 đồng nhi nam. Vậy từ đây cũng nên để ý vào số đã định của Đấng Chí Tôn chọn hoặc bên nam 6 bên nữ 6, hoặc 18 mỗi bên, hoặc 36 mỗi bên, chẳng nên cho nhiều đứa đọc lộn xộn, lại cũng không nên để đồng nhi nhịp sanh, đã khó coi mà chẳng hề khi nào trúng nhịp cho đặng, lại thêm khó đờn quá, để cho Nhạc nhịp mà thôi.

KHOẢN THỨ 18: Thành tụng Khai Kinh Chú.

Những bài Tịnh Tâm, Tịnh Khẩu, Tịnh Thân, An Thổ Địa, các Đạo hữu nên đọc cho biết, chẳng cần đọc nơi đàn, vì không phải là Kinh, chư Tiên có ý muốn dạy chúng ta cho biết cách thức đặng giữ mình hầu khỏi thất lễ nơi trước Bửu điện vậy thôi. Nếu đọc thì sai là vì ta nói rằng ta tịnh khẩu, tịnh tâm, mà kỳ thật đọc um lên rồi thế nào tịnh đặng.

KHOẢN THỨ 30: Điện Tiên Hoa.

Khi dâng Tam bửu, phải đờn Đảo Ngũ Cung mà thôi, không đặng đờn bụa hoặc xuân chi cả. Ấy là Thánh ý của Đấng Chí Tôn.

Nếu muốn biết cách thức cho rõ bước lễ thì đến hỏi nơi Lễ Nhạc Quân, vì trong bước có chỗ phải ngừng, hoặc có tùy nhịp nhàng mới đặng trọn.

(Trong các phần trên, chúng tôi có đổi chữ Lễ Sanh ra chữ lễ sĩ, vì Lễ Sanh là phẩm vị Chức sắc, còn lễ sĩ là học trò lễ, tức là người có phận sự dâng lễ, theo lời Đức Lý Giáo Tông giáng cơ dạy phân biệt)

TIỂU DẪN

Các nơi Thánh Thất cũng tùy theo bổn NGHI TIẾT Lễ Nhạc nầy mà hành lễ. Lập đàn các nơi Chức sắc không đủ thì đặng sắp, nếu có Chức sắc Hiệp Thiên Đài thì cũng để dẫn đầu, bằng chằng thì cứ việc sắp Chức sắc nam phái, rồi Chức sắc nữ phái, kế tín nữ, đồng nhi nữ, thiện nam, đồng nhi nam, cho có thứ tự. (Nếu trong hàng Chức sắc, dầu cho Hiệp Thiên Đài hay là Cửu Trùng Đài, chẳng có Thiên phục tùy thân thì buộc phải đứng theo hàng thiện nam tín nữ. Nhập đàn rồi, nếu có Chức sắc lớn như Đầu Sư, Phối Sư, thì người cũng niệm hương rồi đứng lại hai bên hầu, để cho Giáo Sư chứng đàn nơi Nội nghi, Giáo Hữu nơi Ngoại nghi. Tùy chỗ và tùy theo Chức sắc lớn nhỏ mà hành lễ thế nào cũng chẳng nên để thất trật tự mới ra vẻ Đạo.

* * *

BÀI DÂNG HOA

Từ bi giá ngự rạng môn thiền,
Đệ tử mừng nay hữu huệ duyên.
Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ,
Cúi mong Thượng Đế rưới ân Thiên.

BÀI DÂNG RƯỢU

Thiên ân huệ chiếu giáng thiền minh,
Thành kỉnh Trường Xuân chước tửu quỳnh.
Lạc hứng khấu cung giai miễn lễ,
Thoát tai bá tánh ngưỡng ân sinh.

BÀI DÂNG TRÀ

Mai xuân nguyệt cúc vị trà hương,
Kỉnh lễ thành tâm hiến bửu tương.
Ngưỡng vọng Từ Bi gia tế phước,
Khai minh Đại Đạo hộ thanh bường.

SỚ VĂN ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
 (……… niên)

Tam giáo qui nguyên, Ngũ chi phục nhứt.

Thời duy, Thiên vận …………… niên, ...……… ngoạt, ...………… nhựt, ...……… thời, hiện tại Đại Nam quốc, Tây Ninh Tỉnh, ...…….... Quận, …………Tổng, ……………Thôn, cư trụ Tòa Thánh chi trung.

Kim hữu Thiên phong đệ tử thọ Thiên ân ………………… công đồng thiện nam tín nữ đẳng quì tại điện tiền, thành tâm trình tấu.

HUỲNH KIM KHUYẾT NỘI:

Huyền Khung Cao Thượng Đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn.

Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn.

TAM TÔNG CHƠN GIÁO:

Tây Phương Giáo Chủ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn,

Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh ứng Hóa Thiên Tôn,

Khổng Thánh Tiến Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.

TAM KỲ PHỔ ĐỘ TAM TRẤN OAI NGHIÊM:

Thường Cư Nam Hải Quan Ảm Như Lai,

Lý Đại Tiên Trưởng Thái Bạch Kim Tinh,

Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.

Gia Tô Giáo Chủ Cứu Thế Thiên Tôn,

Thái Công Tướng Phụ Quảng Pháp Thiên Tôn,

Tam Châu Bát Bộ Hộ Pháp Thiên Tôn,

Thập phương chư Phật, vạn chưởng chư Tiên, liên đài chi hạ.

LỄ CÚNG TỨ THỜI

Thường ngày tại Tòa Thánh và tạỉ Thánh Thất các nơi. Nghe dứt 3 tiếng chuông nhứt [1] thì mặc đạo phục rồi nhập đại điện, đứng bài ban tề chỉnh, tay chấp Ấn Tý để ngay ngực, chờ 3 tiếng chuông nhì [2] thì bái đặng bước vào [3] giữa đứng, một hàng 3 vị, ngó ngay Thiên Nhãn, xá 3 xá, chưn trái bước tới, chưn mặt quì xuống, ngó ngay Thiên Nhãn, giở tay Ân Tý lên trán niệm: Nam mô Phật, đưa tay qua gò má bên trái niệm: Nam mô Pháp, đưa qua gò má bên mặt niệm: Nam mô Tăng, để ngay chớn thủy niệm, Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát (cúi đầu) Nam mô Quan Thế Ẩm Bồ Tát Ma Ha Tát (cúi đầu) Nam mô Lý Thái Bạch Kim Tinh (cúi đầu) Nam mô Hiệp Thiến Đại Đế Quan Thánh Để Quân (cúi đầu) Nam mô chư Phật chư Tiên chư Thánh chư Thần (cúi đầu) Rồi thì đồng nhi tụng bài Niệm Hương, dứt rồi, lạy 3 lần, mỗi lần 4 gật là 12 lạy. Kế tụng bài Khai Kinh, dứt thì cúi đầu. Kế tụng bài: Đại La Thiên Đế, lạy 3 lần, mỗi lần 4 gật là 12 lạy, mỗi gật niệm câu: Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Kế tụng bài Phật giáo, lạy 3 lần, mỗi lần 3 gật là 9 lạy, mỗi gật niệm câu: Nam mô Nhiên Đăng cổ Phật Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Kế tụng bài Tiên giáo, lạy 3 lần, mỗi lần 3 gật là 9 lạy, mỗi gật niệm: Nam mô Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn. Kế tụng bài Thánh giáo, lạy 3 lần, mỗi lần 3 gật là 9 lạy, mỗi gật niệm câu: Nam mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thê Thiên Tôn. Rồi thì đọc bài Dâng Tam Bửu tùy theo giờ cúng. Giờ Tý: đọc bài Dâng Rượu, lạy 1 lần 4 gật, niệm mỗi gật câu: Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Giờ Mẹo: đọc bài Dâng Trà, lạy 1 lần 4 gật, mỗi gật niệm câu y như trên. Giờ Ngọ: đọc bài Dâng Rượu, lạy 1 lần 4 gật, cũng niệm y như trên. Giờ Dậu: đọc bài Dâng Trà, lạy 1 lần 4 gật, cũng niệm y như trên. Kế đồng nhi đọc bài Ngũ Nguyện, rồi lạy 3 lần, mỗi lần 4 gật là 12 lạy. Rồi thì đứng dậy, xá Thiên Bàn 3 xá, rồi day phía trái ra [a] Bàn Hộ Pháp xá 1 xá, rồi đứng bài ban lại, chờ 3 tiếng chuông dứt 3 câu kệ [b], xá 1 xá. Chức sắc đi ra trước, kế người lớn, kế đồng nhi, đi cho nhẹ nhàng êm tịnh. Tại nơi nhà tư của Đạo hữu, chẳng đặng phép cúng Đại đàn, cứ cúng y theo trên đây, đều khỏi có chuông và kệ.

--------

[1] Gióng 3 tiếng chuông nhứt thì có 3 câu kệ như sau nầy:

Văn chung khấu hướng huệ trưởng càn khồn, (dộng 1 dùi)
Pháp giới chứng sanh đồng đăng bĩ ngạn. (dộng 1 dùi)
Án dà ra đế da ta bà ha. (dộng 1 dùi)

[2] Gióng 3 tiếng chuông thứ nhì có 3 câu kệ như sau nầy:

Nhứt vi u ám tất giai văn, (dộng 1 dùi)
Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác, (dộng 1 dùi)
Án dà ra đế da ta bà ha. (dộng 1 dùi)

[3] Khi bước vô thì chưn phía trong Bửu điện bước vô trước

[a] Nghĩa là: xây vai mặt qua bên trái.

[b] Gióng 3 tiếng chuông thứ ba cổ 3 câu kệ như sau nầy:

Đàn tràng viên mãn Chức sắc qui nguyên, vĩnh mộc từ ân phong điều võ thuận, (dộng 1 dùi)
 Thiên phong hải chúng, quốc thới dân an, hồi hướng đàn trường tận thâu pháp giới, (dộng 1 dùi)
 Án dà ra để da ta bà ha. (dộng 1 dùi)

(CHUNG)