CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM.
Độc
lập – Tự do – Hạnh phúc.
BẢN GÓP Ý
“Về
dự thảo 4 Luật tín ngưỡng, tôn giáo”.
Kính
gởi: Ban Tôn Giáo chính phủ.
Kính
Vụ pháp chế thanh tra Ban Tôn Giáo chính phủ.
Chúng
tôi là những công dân Việt Nam và là tín đồ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ lập năm 1926
có cơ sở Trung ương là Tòa Thánh Tây Ninh đang bị chi phái lập năm 1997 chiếm dụng
xin phép được góp ý về dự thảo 4 luật tín ngưỡng, tôn giáo như sau:
I/- Dự thảo 4 trái
đạo lý, vi hiến và mâu thuẩn.
Đối
chiếu khoản 1 và 10 trong điều 3.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được
hiểu như sau:
1/. Tín đồ là
người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận.
10/. Tổ chức tôn giáo
là tập hợp những người cùng tin theo một hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi
và tổ chức theo một cơ cấu nhất định
được Nhà nước công nhận.
Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hay gọi tắc là Đạo Cao Đài lập năm 1926 và hoạt động tôn giáo
liên tục; đến năm 1965 chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cấp pháp nhân.
Đến
1997 thì chính quyền Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam cho phép chi phái Hội
Đồng Chưởng Quản hoạt động tôn giáo và giúp cho chi phái nầy chiếm danh hiệu và
cơ ngơi của ĐĐTKPĐ. Chi phái lập năm 1997 (không có tư cách trung ương) tất
nhiên khác với Đạo Cao Đài gốc (có tư cách trung ương) lập năm 1926.
Ngày nay ĐĐTKPĐ không được Nhà nước công nhận; cho nên không được hoạt động tôn
giáo.
Vậy tổ chức tôn giáo (hay Hội Thánh) đâu mà thừa nhận chúng tôi là tín đồ???
Dự
thảo 4 dùng kỷ thuật chia nhỏ để biến người tín đồ Đạo Cao Đài thành người
không đủ điều kiện làm tín đồ; bởi vì không có tổ chức tôn giáo thì lấy chi
thừa nhận? Nó làm người đạo trở nên bơ vơ, không nơi nương tựa và trôi vào mê cung không
lối thoát. Đó là cái thòng lọng rất tinh vi để giết chết ĐĐTKPĐ.
Thực
tế chúng tôi là tín đồ ĐĐTKPĐ trước khi chính quyền quản lý xã hội. Như vậy dự thảo 4 đã tước đoạt quyền làm
tín đồ của người theo ĐĐTKPĐ.
Quyền
tự do tôn giáo là phổ quát và tất yếu; nó là quyền chớ chẳng phải do xin cho mà
có; dự thảo 4 hô biến nó trở nên lệ thuộc tùy vào sự ban phát của chính quyền. Quyền
tự do tôn giáo của tín đồ trở thành lệ thuộc vào tổ chức tôn giáo được chính
phủ công nhận.
Đây
là điều trái với đạo lý.
Dự
thảo 4 cũng trái với hiến pháp điều 14 (khoản 1); điều 24 và đặc biệt là mâu
thuẩn với điều 2 của chính dự thảo 4.
II/- Dự thảo 4 phản
lại luật tiến hóa và phụng sự.
Điều 3. Giải thích từ ngữ
10/. Tổ chức tôn giáo
là tập hợp những người cùng tin theo một hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi
và tổ chức theo một cơ cấu nhất định
được Nhà nước công nhận.
Cụm
từ: tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công nhận. Là một quan niệm phản lại luật tiến hóa và phụng
sự.
Tôn
giáo hiện sinh là để phụng sự nhân loại. Nhân loại thì tiến hóa không ngừng từ
vật chất đến tinh thần. Nhu cầu của nhân loại ngày một cao và không có điểm
dừng. Xã hội đi từ ăn lông ở lổ đến văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp,
văn minh điện và điện tử...
Cuối
thế kỷ 20 hơn 2.000 nhà bác học, luật sư, chính trị gia họp nhau ở Hà Lan nhận
định thế kỷ 21 là thế kỷ của tâm linh. Một nền văn minh mới hình thành
là cả một quá trình phát triễn. Dự thảo 4 lại qui định: tổ
chức theo một cơ cấu nhất định ...
Thời
toàn cầu hóa nhu cầu hội nhập bắt buộc con người và mọi tổ chức phải thích nghi
để tồn tại, phải đón đầu để phát triễn. Tụt hậu có nghĩa là cái chết đã lâm
sàng. Dự thảo 4 không cho tôn giáo cái quyền được thích nghi để tồn tại chứ
đừng nói chi đến hướng dẫn tín đồ phát triễn cho nên mới ràng buộc bằng cụm từ:
theo
một cơ cấu nhất định. Nghĩa là
cơ cấu tổ chức tôn giáo chỉ có vậy thôi không được thay đổi. Mổi lần thay đổi cơ
cấu tổ chức tôn giáo đều phải xin phép và chờ nhà nước công nhận. Nó biến tôn
giáo thành những con cừu non dạy cứ một lối mòn mà bước, cứ mấy cọng cỏ trong
vườn mà cắn mãi, cạp mãi vẫn còn ngon...Trong phạm vi góp ý chúng tôi xin nói
vắn tắc:
Dự
thảo 4 thành luật sẽ rất tai hại cho xã hội, cho tôn giáo; nó sẽ nhấn chìm dân
tộc và đất nước mãi mãi đứng chót Asean. Nó biến người tu hành, tổ chức tôn
giáo thành nô lệ và chết trong vòng nô lệ.
III/- Dự thảo 4
trái với đạo lý và truyền thống dân tộc:
Truyền
thống của Việt tộc là lòng tín ngưỡng và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của
người khác hay cộng đồng khác. Phật Giáo, Lão Giáo, Nho Giáo đều được tổ phụ ta
tín ngưỡng mà không bị kỳ thị chi hết.
Thế
kỷ 18 có Công Giáo du nhập, dân chúng đón nhận và chấp nhận nhưng triều đình nhà
Nguyễn đã nghi kỵ nên cấm đạo. Do vậy xãy ra nhiều cuộc tàn sát người theo Đạo
Công Giáo rất đau lòng. Kết quả là triều nhà Nguyễn sụp đổ mà Công Giáo vẫn tồn
tại và phát triễn.
Miền
Nam là vùng đất mới nhưng lịch sử đã ghi nhận có rất nhiều hình thức tín ngưỡng
hay tôn giáo xuất hiện: như Phật Thầy Tây An (Bửu Sơn Kỳ Hương), Phật Giáo Hòa
Hảo và Cao Đài.... Những tôn giáo mới đó đã đi vào cộng đồng mà không có đăng
ký với chính phủ đương quyền. Nó tồn tại hay không và phát triễn như thế nào
hoàn toàn theo qui luật cung cầu....
Ngày
nay dự thảo 4 tại điều 43 qui định:
Muốn vào tu phải đăng ký, kèm theo sơ
yếu lý lịch, phải được chính quyền cấp xã nơi có hộ khẩu xác nhận và được chính
quyền nơi tu đồng ý... mới được tu.
Trong
lịch sử Việt Nam không có triều đại hay chế độ nào qui định người muốn đi tu
phải được chính quyền đồng ý. Đây là chứng cứ xác định dự thảo 4 đã đi ngược
lại những giá trị văn hóa, đạo đức, tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc.
IV/- Trái với
tiêu chí quốc gia: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
Tiêu
chí của nhà nước hiện nay là: Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
Dự
thảo 4 xuất hiện dày đặc những qui định: đăng
ký, đăng ký hợp lệ, cơ sở thờ tự hợp pháp, được nhà nước công nhận, được sự
chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tôn giáo hợp pháp... nó như
đánh đố người có tín ngưỡng bước vào con đường không có hồi kết... với những
thủ tục như vậy làm cho người tu hành, tổ chức tôn giáo bị lệ thuộc... nên trái
với tiêu chí Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.
Chủ
nghĩa cộng sản tiến đến thiên đường cộng sản thì nhà nước tiêu vong. Vậy thì
vai trò của nhà nước phải giảm lần để tiêu vong. Dự thảo 4 làm theo hướng ngược
lại. Nhà nước quản lý toàn diện từ người tu, nhân sự điều hành tôn giáo đến
sinh hoạt tôn giáo, hoạt động tôn giáo. Nó như thiên la địa võng ràng buộc cả
tinh thần tín ngưỡng và tôn giáo; như vậy dự thảo 4 làm tăng vai trò của chính
quyền trong tín ngưỡng và tôn giáo là trái với chủ nghĩa cộng sản của quí vị.
Nó giống như miệng cứ hô hào tiến lên mà đôi chân lại bước thục lùi. Vậy là
thiên đường cộng sản mổi ngày một xa ư???
Những
qui định nầy cũng trái với Hiến pháp điều 14 khoản 2: Quyền con người, quyền công
dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì
lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội,
sức khỏe của cộng đồng.
Nghĩa
là dự thảo 4 đã hạn chế quyền con người không phù hợp với qui định trong hiến
pháp. Dự thảo 4 nặng về xin cho. Đó là cơ chế đã làm cho tham nhũng tràn lan
trong xã hội đến nổi trở thành ách nạn của dân tộc. Hậu quả của cơ chế đó là
Việt Nam đang đứng chót Asean.
Đem
cơ chế xin cho vào tín ngưỡng, tôn giáo nó sẽ làm cùi cục tinh thần của cá nhân
và cộng đồng. Người bị tai nạn, đau khổ, nghèo khó... rất cần được an ủi, giúp
đở sẽ thiếu tấm lòng nhân ái chia xẽ những khó khăn. Cái khổ sở sẽ tăng lên do cơ
chế bị tôn giáo xơ cứng nên phải làm ngơ và trở thành vô ích trước khổ cảnh của
đồng loại.
V/- Trái với các
công ước Việt Nam ký kết.
Việt
Nam đã phê chuẩn hầu hết các văn kiện nhân quyền quốc tế, kể cả Công ước Quốc
tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị.
Điều 18 của Công ước Quốc tế bảo vệ một cách
rộng rãi việc thực thi các quyền tự do tư tưởng, lương tâm, tôn giáo hay tín
ngưỡng.
Điều
18, khoản 3, của Công ước quy định một số tiêu chí cần được hội đủ nếu Chính
phủ muốn thi hành những hạn chế đó, bằng không thì hạn chế đó không hợp pháp.
Dự
thảo 4 có phạm vi rộng hơn nhiều so với giới hạn được quy định trong Công ước
quốc tế. Như vậy có thể hiểu dự thảo 4 dọn đường dẫn đến vi phạm tự do tôn giáo
hoặc tín ngưỡng, cho nên khi thi hành mà người dân không kêu ca chi được. Quyền
tự do tín ngưỡng và tôn giáo đã bị diệt từ trong trứng nước.
***:
CÔNG NHẬN ĐƯƠNG NHIÊN THÀNH CÔNG NHẬN HÀNH CHÁNH.
Tuyên Ngôn Quốc
tế nhân quyền năm 1948 coi nhân loại như một đại gia đình. Tuyên ngôn công nhận (hay thừa nhận) quyền
tự do tôn giáo là đương nhiên không qua bất kỳ một thủ tục hành chánh nào. Tự
do tín ngưỡng và tôn giáo có trước thủ tục hành chánh.
Hành vi xem thường và chà đạp nhân quyền
đã dẫn đến những hành động man rợ, xúc phạm đến lương tâm nhân loại. Sự kêu gọi
thiết lập một thế giới trong đó tất cả mọi người phải được hưởng quyền tự do
ngôn luận, tự do tín ngưỡng, quyền được giải thoát khỏi sự sợ hãi và nghèo khó,
phải được tuyên xưng như là ước vọng cao nhất của con người. (trích
văn đoạn 02 TNQTNQ).
Dự thảo 4 dùng
chữ công nhận kèm theo nhiều qui định hành chánh như vậy thì việc gia nhập LHQ
và ký kết các điều ước quốc tế về nhân quyền và tự do tôn giáo trở nên mâu
thuẩn. Nghĩa là chính quyền không coi trọng điều mình đã ký sao đáng gọi là phụ
mẫu chi dân?
VI/- Dự thảo 4 thục
lùi so với pháp lệnh 21.
Dự
thảo 4: Điều
5. Quan hệ quốc tế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo
1/. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam quan hệ với các quốc gia, vùng lãnh thổ, tổ chức quốc tế liên quan
đến tín ngưỡng, tôn giáo trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, các bên cùng có lợi, phù
hợp với pháp luật mỗi bên, pháp luật và thông lệ quốc tế.
2/. Trong trường hợp điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
có quy định khác với quy định của Luật này thì thực hiện theo quy
định của điều ước quốc tế đó.
Pháp lệnh 21. Chương VI. Ðiều Khoản Thi Hành. Ðiều
38
Trong trường hợp điều ước quốc tế
mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác với
quy định của Pháp lệnh này thì thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế đó.
Pháp
lệnh 21 qui định: nếu pháp luật Việt Nam không phù hợp với các điều ước quốc tế
mà Việt Nam đã ký kết thì thi hành theo các điều ước quốc tế. Dự thảo 4 hô biến
nội dung trên thành điều khoản quan hệ quốc tế, nghĩa là công dân Việt Nam đã
bị tước bỏ quyền được thi hành theo điều ước quốc tế.
VII/- Đề nghị cụ
thể.
Hiến
Pháp năm 2013 điều 28 qui định:
1/. Công dân có
quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với
cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa
phương và cả nước.
2/. Nhà nước tạo
điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch
trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân.
Chúng
tôi là công dân có tín ngưỡng và là tín đồ ĐĐTKPĐ nên có đầy đủ quyền góp ý. Luật
xây dựng theo hướng phù hợp với các điều ước quốc tế. Cụ thể như sau:
1/-
Hủy bỏ dự thảo 4; vì sai từ căn bản nên không thể chỉnh sửa. Đoạn tuyệt với dự
thảo 4 xây dựng dự thảo mới là việc làm rất khoa học.
2/-
Mời Báo cáo viên đặc biệt về tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng Heiner Bielefeldt
đến giúp đở vì ông đã để lời sẳn sàng giúp Việt Nam...
3/-
Mời các hiền nhân quân tử có chuyên môn về pháp luật, am hiểu về cách thức xây
dựng xã hội dân chủ tham gia soạn thảo.
4/-
Mời nhân sự trong các tôn giáo đã được chính quyền công nhận tham gia soạn
thảo.
5/-
Mời nhân sự trong các tôn giáo chưa được chính quyền cho hoạt động tôn giáo
tham gia để chính quyền biết nguyện vọng của họ và đưa vào luật tôn giáo, tín
ngưỡng.
Trân
trọng kính chào.
Việt
Nam ngày 02. 05. 2015.
Ban
Chấp Hành Khối Nhơn Sanh và đồng đạo.
Đồng
ký tên và chịu trách nhiệm.
1/- Lễ Sanh Ngọc
Thân Thanh. sdt: 01265 112 716
2/- Võ Văn Quang
. sdt: 01639540129,
3/- Trần Ngọc
Sương sdt: 01248 563 486
4/- Trần Quốc Tiến.
+84938 222 049,
5/- Nguyễn Văn
Thiệt sdt 01692 868 984,
6/- Nguyễn Văn
Năm. 01204 742 995.
7/- Nguyễn Thị
Hương. 01645 060 679.
8/- Nguyễn Xuân
Mai sdt: 0982 894 338 viber: 0919 764 876
9/- Nguyễn
Văn Minh. sdt
01202 373 607.
10/- Ngô Văn
Đông: sdt 0935 448 952.
11/- Võ Văn
Điều. Sdt 01234 929 141.
12/- PHẠM VĂN TÙNG.