Trang

Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2024

5487. Châu Tri 6, ngày 1-12-1933 của ba vị Chánh Phối Sư,

 Châu Tri 6, ngày 01-12-1933 "14-10-Quí Dậu" sau khi có việc lật đổ Đức Quyền Giáo Tông ... Châu Tri có 11 khoản nên có nhiều nội dung rất quan trọng: 

Khoản 5: CON DẤU GIẢ: Hai vị Đầu Sư bị ngưng quyền và Ngọc Đầu Sư giả chữ ký, dùng con dấu bất hợp pháp... và TỰ CÀI TÊN Q Thái Đầu Sư Thái Thơ Thanh vào.

Khoản 6: QUYỀN HÀNH ĐẦU SƯ: Đức Bà Lục Nương giải thích, điều nầy rất quan trọng .... 


ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
(Đệ cửu niên)

SÔ: 6                                        CHÂU TRI

Cho chư vị Đầu Tỉnh Đạo, Đầu Họ Đạo, Đầu Quận Đạo,
chư Chức việc và chư Đạo hữu lưỡng phái.

Từ ngày chúng tôi lãnh quyền hành chánh Chánh Phối Sư đến nay, chúng tôi có để công quan sát các việc Đạo, cho nên đã thấy rõ nguyên do sự rối loạn là tại từ thử không cầm nghiêm luật pháp của Đạo. Bởi cớ, muốn trừ loạn thì chỉ có phương hành đạo y theo pháp luật, tức là y theo Pháp Chánh Truyền, Tân Luật và lục Đạo Nghị Định của Đức Lý Giáo Tông mà thôi.


Khi Ban ủy Viên thay mặt Hội Thánh đi chỉnh pháp, lại còn thấy phần nhiều chư Chức sắc và chư Đạo hữu lưỡng phái ở các nơi đều chưa được một lời gì của Hội Thánh dạy dỗ, vậy thì còn mong chi nhờ Hội Thánh binh vực. Than ôi! Luật đạo không thông, luật đời không hiểu, làm thế nào thâu phục nhơn tâm đặng độ người hồi đầu qui thiện.

Cái chủ nghĩa cứu thế cao thượng của ĐĐTKPĐ chẳng phải do nơi sự đánh đổ một cái quyền hành đương nhiên đặng cầm quyền trị loạn, mà là tại nơi thực hành các cơ quan đạo đức, nhứt là về mặt phước thiện, phô bày những gương hòa bình, chơn chánh và thanh bạch cho chúng sanh thấy rõ.

Chúng ta là người đã để chơn vào đường đạo thì phải tự biết rằng, chúng ta không còn quyền nào biết ghét ai, thù oán ai, mưu hại ai, dầu cho đối với người chưa có đạo cũng vậy. Chúng ta chỉ biết thương người đặng độ người, chúng ta chỉ biết thương người đặng cầu người biết thương Thầy là Chúa cả sự thương yêu vạn vật.

Nghĩ phần nhiều chư Chức sắc và chư Chức việc chưa về Hạnh Đường học đặng, nên chúng tôi nhứt định từ đây trong các Châu Tri, chúng tôi sẽ lần lượt đăng những T hánh Ngôn chưa ban hành và giải luật đạo cho chư Chức sắc và chư Chức việc biết cách hành chánh. Vậy chúng tôi xin chư Hiền huynh và chư Hiền tỷ ráng đọc các Châu Tri cho kỹ, điều nào trọng yếu phải ráng nhớ đặng dễ bề thi hành phận sự.

1/- TỰ DO TÍN NGƯỠNG.

Chánh phủ chẳng khi nào buộc chúng ta phải theo đạo nào mà bỏ đạo nào.

Ngày 11–4–1927, quan Nguyên Soái Nam Kỳ có gởi cho Đức Quyền Giáo Tông một bức thơ, có một đoạn chỉ rõ thái độ của chánh phủ đốỉ với sự tín ngưỡng của người Nam như vầy:

“Tôi cho ông biết chắc rằng chánh phủ của tôi rất khoan hồng dung chế đối với các tư tưởng về tôn giáo hay là về triết học của người bổn xứ, nhưng có khoản hờ nghiêm nhặt nầy là đừng có làm cho rối loạn sự yên ổn trật tự của dân, …”

Song le chớ nên tưởng rằng, được tự do tín ngưỡng nghĩa là cũng tự do hội hiệp (liberté d’ association) hay là khỏi đóng thuế vụ. Trái lại, người Đạo càng phải biết rõ luật đời, biết giữ phép nước và lo “Thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà.”

Quyền tự do hội hiệp trong xứ ta chưa có là vì chánh phủ chưa có ban hành tại Đông Pháp, luật lệ ngày 1–7–1901 là luật lệ cho phép tự do hội hiệp.

Vậy nên muốn cúng kiếng đặng đông đảo thì phải do y theo những lời chỉ trong khoản số 2 và số 3 dưới đây mới đặng.

2/- THÁNH THẤT CÓ PHÉP CỦA CHÁNH PHỦ.

Có thể chia các Thánh Thất trong Nam Kỳ ra 2 hạng:

Thứ nhứt: Thánh Thất có phép của chánh phủ,

Thứ nhì: Thánh Thất có phép của Hội Thánh mà không có phép của chánh phủ.

Dưới đây xin giải trước về các Thánh Thất có phép của chánh phủ.

Theo bức thơ số 5188 của quan Nguyên Soái Nam Kỳ gởi cho Đức Quyền Giáo Tông ngày 21–7–1927 thì T hánh Thất nào đã có phép của chánh phủ rồi thì mỗi lần cúng đại đàn khỏi phải xin phép, nhưng 3 ngày trước bữa đại đàn, Chủ Thánh Thất phải gởi tờ cho quan Chủ Tỉnh hay (aviser).

Thường thường ở làng phải nhờ quan quân đệ tờ dùm lên quan Chủ Tĩnh, cho nên tốt hơn phải gởi tờ 8 ngày trước bữa đại đàn.

Thơ gởi cho hay phải viết như vầy:

Làng………………… ngày………tháng....… năm…………

Kính cùng quan Chủ Tỉnh

Kính Quan lớn,

Tôi là……………………………………Chủ Thánh Thất ở tại làng…………………………tổng………………………

Xin khai Quan lớn hay rằng: chúng tôi sẽ thiết lễ cúng đại đàn tại Thánh Thất ………………………… từ ngày ………………… đến ngày ....……………………

Tôi hứa chắc sẽ hành lễ y theo lời dạy trong thơ số 5188 của Quan Nguyên Soái Nam Kỳ gởi cho ông Lê Văn Trung ngày 21–7–1927, nghĩa là:

Thứ nhứt: cấm không cho nói động đến quốc sự.

Thứ nhì: cấm không đặng dùng cơ bút, đồng cốt; làm theo Tả đạo bàng môn.

 Nay kính,

Chủ Thánh Thất
(ký tên)

Ở dưới chót tờ đề thêm: Tên họ Chủ Thánh Thất và chỗ ở.

(Bức thơ số 5188 của Quan Nguyên Soái có in ở phía sau)

Nếu thi hành y theo lời chỉ trên đây mà có điều trở ngại thì phải lập tức cho Hội Thánh biết, chớ đừng tự quyền liệu định.

3/- THÁNH THẤT KHÔNG CÓ PHÉP CỦA CHÁNH PHỦ MÀ CÓ PHÉP CỦA HỘI THÁNH.

Đừng tưởng rằng có phép của Hội Thánh là đủ, rồi không cần xin phép của chánh phủ, muốn hội nhóm cúng kiếng bao nhiêu cũng được.

Cái phép của Hội Thánh chỉ là một cái giấy chứng rằng: Hội Thánh nhìn nhận Thánh Thất ấy là của Đạo mà thôi.

Song le, tuy không có phép của chánh phủ mặc dầu, chớ khi nào dưới số 20 người thì Đạo hữu có quyền cúng kiếng trong Thánh Thất.

Hội Thánh đang sắp đặt lại luật lệ cho các Thánh Thất.

Vậy Thánh Thất nào chưa có giấy phép của chánh phủ, phải lập tức cho Hội Thánh biết, phải trình các giấy tờ cho Đầu Tinh Đạo mình xem xét trước và gởi về dùm cho Hội Thánh.

4/- TRÁCH NHIỆM CỦA VỊ GIÁO SƯ THƯỢNG LATAPIE THANH.

Chiếu theo luật đạo, khi vị Quyền Đầu Sư Thượng Tương Thanh đã giao trách nhậm Thượng Chánh Phối Sư lại cho Khai Thế Thái Văn Thâu bên Hiệp Thiên Đài rồi, tất nhiên người cũng đã hết quyền thay mặt cho Đạo đặng đối đãi với chánh phủ, cho nên người có viết thơ cho Quan Nguyên Soái Nam Kỳ hay về lẽ ấy rồi.

Thơ như vầy (viết bằng chữ Pháp dịch lại, có in nguyên văn ở sau)

Tây Ninh, ngày 1–4–1933.

Số 54.

Kính cùng Quan Nguyên Soái Nam Kỳ, Sài Gòn.

Kính Quan Nguyên Soái,

Tôi kính trình cho quan lớn hay rằng: Kể từ ngày 1–4– 1933, tôi không còn thay mặt cho Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tại Nam Kỳ nữa.

Được lên phẩm vị Đầu Sư, tôi chỉ còn lo việc Đạo thiêng liêng mà thôi, theo tân phẩm của tôi.

Hội Thánh sẽ lựa người kế vị tôi, rồi người làm đầu trong Đạo là ông Lê Văn Trung sẽ cho quan lớn biết.

Tôi ước ao sao quan lớn sẽ vui lòng đối với người kế vị tôi cũng như quan lớn đã rộng lượng với tôi vậy.

Kính quan lớn.

Ký tên: Nguyễn Ngọc Tương.

Chiếu theo thơ trên đây, Đức Quyền Giáo Tông có nhóm Đại hội chư Đại Thiên phong đương hành đạo tại Tòa Thánh đồng nhứt định giao quyền thay mặt cho Đạo đặng giao thiệp với chánh phủ cho vị Giáo Sư Thượng Latapie Thanh. Đoạn Đức Quyền Giáo Tông mới viết thơ cho Quan Nguyên Soái Nam Kỳ biết.

Thơ như vầy (nguyên văn bằng chữ Pháp, có in ở sau)

Tây Ninh ngày 18–4–1933.

Số 69,

Kính cùng Quan Nguyên Soái Nam Kỳ, Sài Gòn.

Kính Quan Nguyên Soái,

Tiếp theo thơ số 54 đề ngày 1–4–1933 của ông Nguyễn Ngọc Tương, tôi xin trình quan lớn hay rằng: Hội Thánh đã lựa ông Leopold Latapie thế cho ông Nguyễn Ngọc Tương vào trách nhậm thay mặt cho Đai-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tại Nam Kỳ hầu giao thiệp với chánh phủ.

Ông Léopold Latapie làm chức Giáo Sư bên phái người Pháp của Đạo, ông thi hành phận sự kể từ ngày nay.

Kính Quan lớn.

Ký tên: Lê Văn Trung.

Theo 2 bức thơ trên đây thì chỉ có vị Giáo Sư Thượng Latapie Thanh là có quyền thay mặt cho Đạo đặng giao thiệp với chánh phủ Nam Kỳ. Thế mà vị Quyền Đầu Sư Thượng Tương Thanh cũng còn lạm quyền của người, mấy năm rồi cầm quyền không lo, ngày nay có người thế lại bương bả đi cùng Thánh Thất làm cho Đạo hữu không biết lẽ nào liệu định, phân vân chán ngán. Vị Giáo sư Thượng Latapie Thanh cũng lấy làm ngạc nhiên cho cái cử chỉ trái ngược như vậy.

5/- CON DẤU GIẢ.

Sau khi hai vị Quyền Đầu Sư: Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh bị ngưng quyền thì Đạo hữu các nơi có được nhiều giấy tờ của 2 người, cũng có đủ con dấu Tòa Thánh, con dấu Đầu Sư.

Chúng tôi xin chư Chức sắc và chư Chức việc từ đây phải coi chừng cho lắm, con dấu còn giả mạo được thì cái chi lại từ. Vả lại, trước mặt Đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp, ông Thượng Tương Thanh có khai với chúng tôi rằng: người không có hay biết điều chi hết về việc ông Ngọc Trang Thanh lập tờ Nghị Định số 1. Ông cũng không có đồng ý chút nào với ông Ngọc Trang Thanh. Tự ông nầy viết lúng rồi đem đi in và gởi cùng các nơi. Về phần vị Đầu Sư Thái Thơ Thanh thì người có viết cho Đức Quyền Giáo Tông bức thơ như vầy:

Sài Gòn, ngày 20–8–1933.

Đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp, Tòa Thánh Tây Ninh.

Kính thăm Đại Hiền huynh và Đức Hộ Pháp, ngửa nhờ giọt hồng ân của Đức Chí Tôn ban bố cho đầy đủ.

Từ hôm tôi về ở tại nhà in tới nay, đã có viết thơ về thưa cho Đại Hiền huynh rõ rồi, nghĩa là tôi vì cơn bịnh trong mình không thể về Tòa Thánh, trước gần Đại Hiền huynh hầu nhờ chỉ giáo, sau lo bòn công mót quả với Thầy được.

Ngày nay tôi có tiếp được Châu Tri số 1 trong đó có thấy đóng con dấu Thái Đầu Sư làm cho tôi lấy làm lạ vô cùng, vì từ hồi tôi lên Quyền Đầu Sư cho đến lúc lâm bịnh mà về ở dưới nầy thì tôi không hề thấy con dấu Thái Đầu Sư, mà không hiểu tại sao nay lại có mà đóng vô Châu Tri đó. Nên tôi gởi bức thơ nầy, trước thăm Đại Hiền huynh và Đức Hộ Pháp, sau xin nhờ hai Ngài chỉ giáo lại cho tôi rõ ràng.

Đôi hàng thành thật, kính chúc Đại Hiền huynh và Đức Hộ Pháp cùng chư Thiên phong Chức sắc nam nữ tại Tòa Thánh được bền chơn thẳng bước trên thang đạo đến chỗ cao cùng tột.

Nay kính.

Ký tên: Thái Thơ Thanh.

Hựu bút: Kính Đại Hiền huynh, tôi mới tiếp đặng thơ recommandée hỏi nên tôi mới hay mà trả lời liền theo đây. Vì tôi mới tiếp đặng tờ số 1 của ông Quyền Ngọc Đầu Sư thì tôi mới hay ông làm hồi nào tôi không biết tới tờ ấy mà sao lại đem tên tôi vô, và đóng con dấu nữa, vì tôi có nói với 2 ông rồi, vì tôi có bịnh không dự việc đạo đã lâu rồi, nên không dám dự điều chi hết.

Nay kính.

Ký tên: Thái Thơ Thanh.

6/- QUYỀN HÀNH ĐẦU SƯ.

Chiếu y luật đạo thì Đầu Sư không có quyền hành chánh, nghĩa là chỉ có quyền cai trị chớ không được cầm quyền chánh trị của Đạo, là quyền đặc biệt của Chánh Phối Sư.

Trong Pháp Chánh Truyền Chú giải, Đức Hộ Pháp có giải rành rẽ phần nầy. Nghĩa lý khác nhau duy tại 2 chữ Cai trị và Chánh trị. Cai trị thì cả Chức sắc của Hội T hánh đều được một phần quyền cai trị, tùy theo phẩm vị của mỗi người. Vậy thì Đầu Sư phải cai trị thế nào?

Buổi chúng tôi mới bắt đầu cầm quyền chánh trị của Đạo, chúng tôi đã thấy chư vị Quyền Đầu Sư chưa hiểu rõ trách nhậm của mình, cho nên trong chương trình hành đạo, chúng tôi có giải rành trước, phòng sau nầy khỏi phản khắc đạo quyền. Tiếc thay! Nếu chư vị Quyền Đầu Sư nghe theo chúng tôi thì ngày nay đâu có ra đến đỗi.

Chúng tôi không có in phần Chú giải về quyền hành Đầu Sư trong Châu Tri số 1 là vì từ phẩm Đầu Sư đổ lên thì chỉ còn giao thiệp với Chánh Phối sư mà thôi, chớ không có giao thiệp ngay với Chức sắc dưới và Đạo hữu nữa.

Chúng tôi tưởng ngày nay cũng nên giải rõ ra đây khoản Chú giải phần cai trị từ Đầu Sư đến Giáo Tông cho chư Hiền huynh và chư Hiền tỷ biết.

CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐẠO (Phái Ngọc)

Định trách nhậm của mỗi Chức sắc CTĐ nam và nữ:

CHÚ GIẢI: Trách nhậm của Chức sắc CTĐ, tuy đã có định rành trong Pháp Chánh Truyền, Tân Luật và Đạo Nghị Định, nhưng trong việc thi hành luật pháp còn thấy phản khắc đạo quyền.

Trách nhậm của mỗi Chức sắc trong khi hành chánh không thấy rõ giới hạn, sự phản khắc thường do nơi không hiểu sự trật tự trong các quyền hành. Phản khắc lại chính từ ngôi Giáo Tông cho đến 3 vị Chánh Phối Sư, cho nên cần phải phân ra mặt luật các quyền hành ấy như vầy:

Bắt từ dưới đổ lên thì quyền hành chánh tức là cả quyền chánh trị của Đạo đến nơi tay của 3 vị Chánh Phối Sư cầm, chiếu y theo Đạo Nghị Định thứ nhì, thứ ba và thứ tư của Đức Lý Giáo Tông. Vậy thì quyền chánh trị là quyền đặc biệt của Chánh Phối Sư, nhưng từ đây phải buộc Chánh Phối Sư lập chương trình hành đạo và đem ra cho 3 Hội phê chuẩn rồi mới được thi hành.

Điều thứ ba trong Đạo Nghị Định thứ nhì lại buộc Chánh Phối Sư phải tùng quyền Giáo Tông mà hành chánh về phần chánh trị của Đạo. Vậy thì Chánh Phối Sư phải thi hành các mạng lịnh của Giáo Tông hay không? Chánh Phối Sư không được nghịch với mạng lịnh nào cả, song le các mạng lịnh của Giáo Tông phải gởi cho Đầu Sư trao lại cho Chánh Phối Sư, và chính Giáo Tông cũng không được ra mạng lịnh nào trái với luật đạo hay là ngoài cái chương trình hành đạo của 3 Hội đã phê chuẩn. Trước khi trao lịnh của Giáo Tông cho Chánh Phối Sư, Đầu Sư được quyền xem xét, như không trái luật đạo, không ngoài chương trình hành đạo thì nội trong 2 ngày sau khi được thơ phải trao cho Chánh Phối Sư thi hành. Thoảng như lịnh ấy trái luật đạo thì cũng nội trong 2 ngày, Đầu Sư phải trả lại cho Giáo Tông và phải cho biết vì lẽ nào lịnh ấy trái luật đạo hay ngoài chương trình. Giáo Tông sẽ gởi cho Chưởng Pháp xét nét lại. Như Chưởng Pháp đệ tờ lên Giáo Tông cho hay rằng đều đồng ý kiến với Đầu Sư thì Giáo Tông phải nghe theo. Còn như Chưởng Pháp đồng ý với Giáo Tông thì Giáo Tông sẽ gởi ngay mạng lịnh và tờ phúc của Chưởng Pháp cho Chánh Phối Sư, rồi thì Chánh Phối Sư cứ tuân lịnh thi hành.

 Sau khi chứng tôi viết xong phần Chú Giải trên đây, chúng tôi cũng có cầu xin các Đấng thiêng liêng chỉ giáo thêm đặng tránh khỏi điều sơ sót.

Dưới đây là Thánh giáo ngày 20 tháng 4 trả lời những câu hỏi của Ngọc Chánh Phối Sư (Khai Pháp):

Ngọc Chánh Phối Sư bạch: – Thưa Chánh Phối Sư phải tùng quyền Đầu Sư hay là Giáo Tông mà hành chánh?

Lục Nương Diêu Trì Cung trả lời: – Theo Đạo luật thì Trần Hiền Quân [1] là Chánh Phối Sư, nghĩa là chủ quyền chánh trị. Hành quyền chánh trị thọ tại nơi đâu? Có phải là nơi quyền Chí Tôn chăng? Hễ quyền Chí Tôn ở nơi Hộ Pháp và Giáo Tông hiệp một; vậy nơi có quyền Chí Tôn ban xuống là Giáo Tông, chớ Đầu Sư có quyền gì mà thọ mạng. Đầu Sư là trung gian quyền Chí Tôn và Vạn linh, có quyền xin sửa cải mạng lịnh chớ không có quyền ban mạng lịnh.

[1] Trần Hiền Quân là Thời Quân Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, hiện đang nắm quyền Ngọc Chánh Phối Sư.

 

Ngọc Chánh Phối Sư bạch: – Có người còn nghi kỵ trong việc hành động của Đức Quyền Giáo Tông, chỗ Ngài phải thọ mạng lịnh nơi Đức Lý Giáo Tông. Họ hiểu rằng Đức Quyền Giáo Tông là phần xác của Đức Lý Đại Tiên, nếu xác thì sự hành động cũng phải do theo lịnh của Đức Lý Giáo Tông mới chánh lý.

Trả lời: – Không ai có phép nào biết điều ấy đặng. Tỷ như Hiền Quân muốn ban quyền hành của Hiền Quân lại cho người nào thì tự nơi Hiền Quân trọng nhiệm, chớ kẻ ngoại nhân ăn thua chi vào đấy mà chối cãi. Vậy thì Đức Lý Giáo Tông đã chọn Lý Trưởng huynh [2] thì do nơi Ngài chịu trách nhậm. Thoảng như Lý Trưởng huynh phải thọ thưởng hay là phạt cũng ở tay Ngài. Còn người ngoại nhân không phép ngó vào sự hành động của Lý Trưởng huynh, đặng tìm sở hành của Đức Lý Thái Bạch. Vậy thì Lý Trưởng huynh duy tự liệu cùng Đức Lý Giáo Tông rồi tự do hành lịnh.

[2] Lý Trưởng huynh là Đức Quyền Giảo Tông vì nguyên linh của Ngài là Lý Thiết Quả, đứng đầu Bát Tiên.

 

7/- GIÁO TÔNG ĐƯỜNG.

Chúng tôi xin tuyên bố cho chư Chức sắc và chư Đạo hữu lưỡng phái các nơi biết rằng, chúng tôi có xin Đức Quyền Giáo Tông lập ra thể lệ tiếp khách tại Giáo Tông Đường như sau nầy:

1. Kể từ ngày 1–12–1933, mỗi tuần tiếp khách có 3 lần mà thôi:

Thứ hai: mỗi bữa từ 9 giờ đến 11 giờ sớm mai.

Thứ tư: .............–nt– .................

Thứ sáu: ............–nt– .................

2. Bất kỳ vị nào muốn đến hầu chuyện với Ngài về việc Đạo, phải đến Tòa Nội Chánh xin giấy của Chánh Phối Sư trước. Có giấy của Chánh Phối Sư cho rồi mới được phép vô thăm Ngài. Nếu không tuân theo thể lệ nầy thì người gác cửa không đặng phép cho vào.

 3. Ngài đã có nhà tư ngoài Tòa Thánh thì các việc riêng không thuộc về Đạo, phải đến đó thương lượng với gia quyến của Ngài. Ở tại Giáo Tông Đường thì chỉ được phép bàn về việc Đạo với Ngài mà thôi.

Chúng tôi xin cho chư Chức sắc và chư Đạo hữu biết rằng từ đây các thơ từ thuộc về Đạo phải gởi cho Chánh Phối Sư mà thôi, chớ không đặng giao thiệp ngay với Đức Quyền Giáo Tông như trước nữa. Việc nào đáng thì Chánh Phối Sư sẽ đệ lên Ngài đặng để Ngài có thời giờ lo việc Đạo lớn lao khác.

8/- HỘ PHÁP ĐƯỜNG.

Ở Hộ Pháp Đường thì thể lệ tiếp khách như vầy:

1. Mỗi tuần tiếp khách 1 lần mà thôi, là ngày thứ hai từ 6 giờ tới 11 giờ sớm mai,

2. Muốn vô thăm, phải có giấy của Tiếp Thế cho mớỉ được.

9/- NỘI LUẬT THÁNH THẤT.

Chúng tôi xin chư Đầu Tỉnh Đạo buộc các Thánh Thất phải thi hành Nội Luật Thánh Thất của Hội Thánh mới ban hành, về tên người được thay mặt cho Đạo đặng đứng bộ các Thánh Thất thì sau nầy sẽ có Châu Tri cho hay.

10/- PHÓ TRỊ SỰ và THÔNG SỰ.

Chiếu theo Đạo Nghị Định thứ ba, điều thứ hai của Đức Lý Giáo Tông, Hội Thánh xin chư vị Đầu Tỉnh Đạo buộc mỗi làng phải có một vị Chánh Trị Sự mà thôi, còn mỗi Ấp thì 1 vị Phó Trị Sự và 1 vị Thông Sự.

Tờ Châu Tri nầy tức nhiên hủy tờ Châu Tri số 21 của Đức Q. Giáo Tông nói về mỗi làng duy được có 1 Thông Sự,

11/- VỀ CHỨC SẮC BỊ NGƯNG QUYỀN hay là KHÔNG HÀNH CHÁNH và TÍN ĐỒ KHÔNG TÙNG LUẬT ĐẠO.

Hội Thánh xin chư vị Đầu Tỉnh Đạo truyền bá cho chư Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu rõ các điều nhứt định sau nầy:

1. Chức sắc hay Chức việc nào đã thọ mạng lịnh mà không hành chánh thì kể vào hạng hàm phong, mà ở hạng hàm phong thì không được quyền dự vào việc chánh trị của Đạo.

2. Chức sắc bị ngưng quyền hay là bị án Tòa Tam Giáo thì không còn quyền dự cử và công cử.

3. Chức sắc mà không tùng luật đạo, nghĩa là không tuân y Pháp Chánh Truyền, Tân Luật và Đạo Nghị Định thì không đặng dự vào việc chánh trị của Đạo và phải bị đệ ra Tòa Tam Giáo.

4. Tín đồ không tùng Hội Thánh, không có tên trong bộ Tòa Thánh, không có phái cấp thì kể như người ngoại đạo. Không có quyền gì hưởng được các ân huệ của Đạo như lễ Hôn phối, Cầu siêu. Dưỡng Lão, cấp Cô Độc viên, Ấu Trĩ viên, v.v…

Tòa Thánh, ngày 1–12–1933.

Thái Chánh Phối Sư. Thượng Chánh Phối Sư. Ngọc Chánh Phối Sư

Phạm Tấn Đãi. Thái Văn Thâu. Trần Duy Nghĩa.

Nguyên văn (Pháp ngữ) các bức thư.

Thư của Đầu Sư Thượng Tương Thanh.

Recommandée avec A. R. Récépissé No 47.

No 54 Tây Ninh, le ler Avril 1933.

A Monsieur Le Gouvemeur de la Cochinchine, Saigon. Monsieur le Gouvemeur, J’ ai l’ honneur de venir très respectueusement vous faire connaitre qu’ à partir du ler Avril 1933, je ne représente plus le Caodaisme en Cochinchine.

Élevé à la dignité de Đầu Sư, je ne m’ occupe plus de par mes nouvelles attributions que des questions spirituelles.

Le successeur de mon ancien poste sera choisi ultérieu- rement par le Sacerdoce et porté à votre connaissance par les soins du Supérieur du Caodaisme, Monsieur Lê Văn Trung.

Espérant que vous voudriez bien réserver à mon futur remplacant la même bienveillance que vous avez toujours eue pour moi, je vous prie d’ agréer, Monsieur le Gouvemeur, l’ hommage de mes sentiments respectueux et dévoués.

Signé: Nguyễn Ngọc Tương.

Monsieur Nguyễn Ngọc Tương, Phủ en retraite à Tây Ninh.

Thư của Đức Quyền Giáo Tông.

Tây Ninh. Le 18 Avril 1933.

No 69

Recommandée Récépissé No 276.

A Monsieur Le Gouvemeur de la Cochinchine, Saigon.

 Monsieur le Gouvemeur, Comme suite de la lettre No 45 du 1er Avril 1933 de M. Nguyễn Ngọc Tương, j’ ai l’ honneur de vous faire connaitre que le Sacerdoce a choisi M. Léopold Latapie comme successeur de M. Nguyễn Ngọc Tương aux fonctions de représentant du Caodaisme auprès de l’ Administration en Cochinchine.

M. Léopold Latapie, Giáo sư (Êvêque) de la section francaise du Caodaisme, assure ses nouvelles attributions à compter de ce jour.

Veuillez agréer. Monsieur le Gouvemeur, l’ assurance de mes sentiments respectueux et dévoués.

Signé: Lê Văn Trung.

Monsieur Lê Văn Trung,         
Chevalier de la Légion d’ honneur    
Ancien membre du Conseil de Gouvernement de l’ Indochìne.        
Pape intérimaire du Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (3è Amnistie de Dìeu en Orient).          
Tây Ninh.

Thư của Nguyên soái Nam Kỳ gởi Đức Quyền Giáo Tông.

 

Gouvernement Général
de I’ Indochine.
Cochinchine française.
Cabinet du Gouverneur
No 5188.

RÉPUBLIQUE FRANÇAISE
Liberté – Egalité – Fraternité

SAIGON, LE 21 JUILLET 1927


LE GOUVERNEUR DE LA COCHINCHINE
Officier de la Légion d’ honneur
À Monsieur Lê Văn Trung, à CHOLON.

Monsieur,

Par lettre en date du 6 Mai 1927, vous m’ avez demandé de vous autoriser à ouvrir, aux endroits indiqués sur une liste annexée, des maisons de culte et de propagande du Bouddhisme indochinois rénové.

Comme suite à ma lettre No 3633 en date du 11 Mai 1927 et réponse à votre lettre précitée, j’ ai l’ honneur de vous faire connaitre qu’ il ne m’ est pas possible d’ autoriser l’ ouverture de tous les oratoires dont vous envisagez la création.

Vous trouverez ci-joint la liste des oratoires pour lesquels j’ estime qu’ il n’y a aucun inconvénient d’autoriser l’ouverture. Ceux qui n’y figurent pas devront, à compte du 1er Aout, être fermés.

D’autre part, j’attire votre attention sur les conditions de célébration des cérémonies Caodaistes.

1. Pour toute réunion de plus de vingt personnes, le propriétaire đe l’ immeuble servant d’ oratoire devra prévenir au moins trois jours à l’ avance le Chef de Province ou le Maire de la Ville de Saigon du jour et de l’ heure de la cérémonie.

2. Les cérémonies, quelque soit le nombre des participants devront, dans tons les cas, être publiques.

3. Enfin, toutes discussions ou allusions politiques, toutes pratiques de spiritsme, de sorcellerie ou de magnétisme seront formellement interdites.

J’ajoute qu’ il demeure entendu que l’ouverture de tout nouvel oratoire est subordonné à mon autoriation préalable.

Je vous prie de m’accuser réeeption le plus tôt possible de la présente lettre. Veuillez agréer, Monsieur, l’assurance de ma consideration distinguée.

Signé: Blanchard de la Brosse.

HẾT.