VNTB – Việt Nam phá hoại tôn giáo như thế nào? (bài 4)
Quang Nguyên
(VNTB) – Tuy nhà nước đã cho phép, nhưng sự nghi ngờ và sợ hãi vẫn còn, ..,Ban Tôn giáo Chính phủ và ngành Công an Tôn giáo đã “bảo hộ” phái đoàn trong tinh thần ấy…
Bài 4: Tiếp tay đánh phá Thiền tông Làng Mai
Bài 1: Các trợ cụ đàn áp tôn giáo của chính quyền Việt Nam
Bài 2: Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Công cụ chính trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam
Bài 3: GHPGVN can thiệp vào việc thờ phượng và hoạt động của các tông phái Phật giáo
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam (GHPGVN) đã tự phơi bày sự nguy hiểm của Ban tôn giáo chính phủ qua những hành động hoặc công khai, hoặc lén lút giúp chính quyền đàn áp các tông phái Phật giáo không chịu tham gia, dâng hiến tài sản cho chính quyền. Đối xử hai mặt, vi phạm tự do tôn giáo, bảo thủ, cam lòng làm tay sai cho chính quyền, thiếu từ bi, phủ nhận lịch sử dân tộc, hoặc không sẵn sàng đối diện với đau thương của chúng sanh, bất khoan dung, sẵn lòng cúi đầu tuần theo sách lược của nhà cầm quyền, GHPGVN không thể là đại diện cho Phật Giáo Việt Nam. (1)
Hòa Thượng Thích Nhất Hạnh là một trong những nhà sư Phật giáo nổi tiếng nhất Việt Nam. Từ 1966, để vận động hòa bình trong chiến tranh Việt Nam, ông đã rời khỏi Việt Nam. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và sau này là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đều không cho phép ông trở về nước do lo ngại ông có thể gây ảnh hưởng chính trị. Ông đã bị cả hai phía gọi là kẻ phản bội và bị cấm trở về quê hương trong gần 40 năm. Ông lưu vong, và hoạt động tại Pháp và thành lập Làng Mai, một trung tâm tu học nổi tiếng.
Thầy Thích Nhất Hạnh được chính phủ Việt Nam cho phép trở về nước năm 2005. Sự trở về của sư ông Làng Mai xem như một biểu tượng của sự hòa giải, và riêng chính phủ Việt Nam muốn chứng tỏ cho thế giới rằng Việt Nam tôn trọng tự do tôn giáo. Trong chuyến về nước này, Thầy Thích Nhất Hạnh đã dẫn đầu một đoàn tăng ni từ Làng Mai, khoảng 300 tăng thân thuộc nhiều quốc tịch. Ông cho tổ chức các khóa tu học, diễn thuyết và cầu nguyện hòa bình tại nhiều chùa lớn trong cả nước. Ông tin có thể thay đổi được Việt Nam trong lần về này (2). Nhưng mỉa mai, 2 chuyến về đầy kỳ vọng mang ý nghĩa hòa giải và từ bi của ông đều thất bại.
Thầy Thích Nhất Hạnh và đoàn tăng thân Làng Mai muốn có tự do tôn giáo và quyền tự do hoạt động, tổ chức các buổi giảng pháp và thực hành lễ nghi Phật giáo độc lập. Tuy nhiên, chính quyền Việt Nam đã giới hạn quyền tự do này và yêu cầu các hoạt động của Làng Mai phải được sự chấp thuận trước. Điều này khiến Thầy Thích Nhất Hạnh không thể tự do truyền bá tư tưởng Phật giáo của mình như mong muốn.
Trong Lá Thư Làng Mai, số 31, ông viết, “Có điều là tuy nhà nước đã cho phép, nhưng sự nghi ngờ và sợ hãi vẫn còn, ..,Ban Tôn giáo Chính phủ và ngành Công an Tôn giáo đã “bảo hộ” phái đoàn trong tinh thần ấy, “Đi đâu, làm gì, phái đoàn cũng phải cho công an biết trước; nếu công an xét không có an ninh thì không được đi, không được làm. Cũng vì vậy cho nên trong suốt thời gian thăm viếng, phái đoàn có cảm giác không được thoải mái lắm.”(3)
Thầy Thích Nhất Hạnh có nguyện vọng phát triển một trung tâm Phật giáo tại Việt Nam theo mô hình của Làng Mai ở Pháp, giảng dạy về Phật giáo ứng dụng và hòa bình. Tuy nhiên, chính quyền đã từ chối cấp phép cho ông do lo ngại rằng trung tâm có thể trở thành nơi phát triển tư tưởng khác biệt, khó kiểm soát về cả hai mặt tôn giáo và chính trị.
Chính quyền lo ngại sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Làng Mai, đặc biệt với giới trẻ và trí thức và những thông điệp về cải cách xã hội của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Đến nay, trong nước, vẫn không có một trung tâm chính thức nào hoạt động theo phong cách Làng Mai, sau khi giáo thụ và tăng thân bị đuổi hết khỏi chùa Bát Nhã. Chùa Bát Nhã do chính Làng Mai đã hỗ trợ xây dựng nhiều năm và sư trụ trì Thích Đức Nghi đã được sư phụ Nhất Hạnh làm lễ Truyền Đăng (1)
Khi về Việt Nam, Thầy Thích Nhất Hạnh đề xuất tổ chức các nghi lễ hòa giải mang tính biểu tượng nhằm siêu độ cho các nạn nhân chiến tranh và chữa lành nỗi đau của dân tộc. Trai đàn Chẩn Tế năm 2007 là một ví dụ, chính quyền dù cho phép nhưng vẫn gây khó khăn và không hỗ trợ đầy đủ.. “.. trước ngày khai mạc Đại Trai đàn Chẩn tế ở chùa Vĩnh Nghiêm, ông Bùi Hữu Dược, Vụ trưởng vụ Phật giáo của Ban Tôn giáo Chính phủ đã nói với thầy Pháp Ấn là trong trai đàn, các thầy không được nhắc tới người thuyền nhân bị thiệt mạng trên biển cả, các nạn nhân chiến tranh của miền Nam, trong đó có các binh sĩ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, không được nói tới các hố chôn tập thể, không được nói tới tù đày, học tập cải tạo,(3) v.v…” Lễ chẩn tế cho các chiến sĩ từng là kẻ thù cả hai miền đã bị coi là nhạy cảm, do vẫn còn những ý kiến trái chiều trong nước liên quan đến lịch sử và chiến tranh.
Trong các buổi thuyết giảng, Thầy Thích Nhất Hạnh khẳng định tầm quan trọng của quyền tự do thực hành tôn giáo, hòa giải quốc gia, điều mà ông cho rằng cần thiết cho một xã hội cởi mở và phát triển bền vững. Nhưng các quan điểm này mâu thuẫn với lập trường của chính phủ Việt Nam và như thế cũng là của GHPGVN.
Chính quyền có thể đã xem tư tưởng và hoạt động của ông là thách thức, hoặc ít nhất là không phù hợp với định hướng chính trị mà họ đặt ra cho Phật giáo tại Việt Nam mà GHPGVN là kẻ thi hành. Thầy Thích Nhất Hạnh sau này đã chỉ trích tính “hai mặt” của nhà nước liên quan đến tự do tôn giáo, “Chính quyền cộng sản lo ngại rằng rất nhiều người, đặc biệt là những người trẻ tuổi, có học thức, bị thu hút bởi những lời dạy của Nhất Hạnh. Đổi lại, một số Phật tử lo sợ rằng chính quyền sẽ sử dụng chuyến đi để tạo ra vẻ ngoài tự do tôn giáo trong khi các vụ lạm dụng vẫn tiếp diễn.(3).
Thầy Thích Nhất Hạnh trở về sau 40 năm chắc chắn không chủ ý làm mất lòng GHPGVN, nhưng GHPGVN cũng như ban Tôn giáo Chính Phủ, đã giữ một khoảng cách nhất định, e dè và lạnh nhạt trong quan hệ với ông. GHPGVN phải tránh xa Thích Nhất Hạnh, họ không muốn bị chính quyền nghi ngờ về sự trung thành và khả năng tuân thủ các chỉ thị nhà nước. Ngoài ra GHPGVN luôn lo lắng cho vị thế của họ trước ảnh hưởng mạnh mẽ của Làng Mai trong giới trí thức và giới trẻ. Giữ khoảng cách với Làng Mai giúp GHPGVN không những duy trì sự gần gũi, lệ thuộc ổn định với chính quyền, mà còn bảo vệ vị thế độc quyền trong việc cắt nghĩa và quản lý Phật giáo tại Việt Nam theo khuynh hướng chính trị độc tài, kiểm soát chặt chẽ các vấn đề liên quan đến lịch sử, và các sự kiện liên quan đến chiến tranh của ĐCSVN.
GHPGVN đã không tham gia, không công nhận sự kiện Trai Đàn Chẩn Tế vì họ có thể lo ngại rằng nó sẽ mở cửa cho những phong trào tương tự hoặc các lời kêu gọi hòa giải khác, điều có thể dẫn đến sự thay đổi trong cách nhìn nhận về lịch sử chiến tranh quốc-cộng ở Việt Nam. Sự im lặng, tránh né của GHPGVN trong việc tham gia Trai Đàn Chẩn Tế bị xem là thiếu khoan dung, không hỗ trợ cho tiến trình hòa giải dân tộc, đặc biệt quan trọng với những người ủng hộ tinh thần hòa hợp, hòa giải sau chiến tranh. Đồng thời cũng cho thấy hình ảnh GHPGVN bảo thủ, thân cộng, thiếu lòng từ bi, phủ nhận lịch sử, hoặc không sẵn sàng đối diện với lịch sử đau thương, để bảo vệ vị trí của các cá nhân trong giáo hội thay vì trung thành với các giá trị Phật giáo cốt lõi.
Việc GHPGVN “bảo vệ vị thế” lại gây ra tiếng xấu như nói trên, đặt ra câu hỏi: Có nên và có đáng để giáo hội làm như vậy không?
Thật ra GHPGVN có thể tìm cách cân bằng giữa việc bảo vệ vị thế chính trị và giữ vững các giá trị đạo đức nếu giáo hội này hoạt động một cách khéo léo để vừa giữ được mối quan hệ với chính quyền, vừa không xa rời các giá trị từ bi và hòa giải, điều này sẽ giúp giữ vững sự tôn trọng và uy tín trong cộng đồng. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi sự dũng cảm và trí tuệ- đại hùng, đại lực, đại từ bi- trong cách hành động, mà những con người trong giáo hội này hoàn toàn không có. Từ sau sự kiện Trai Đàn Chẩn Tế do Thầy Thích Nhất Hạnh tổ chức năm 2007, GHPGVN chưa tổ chức một nghi lễ “giải oan” nào có quy mô và ý nghĩa tương tự.
Chính quyền Việt Nam “hai mặt” như thế nào, đặc biệt trong vấn đề tự do tôn giáo và nhân quyền, thì GHPGVN cũng y như vậy. GHPGVN này hết lòng duy trì mối quan hệ ổn định với chính quyền và bám chặt vị thế của mình nên hạn chế tiếp cận các sáng kiến có khả năng gây tranh cãi, đặc biệt là các vấn đề liên quan tự do của các tông phái Phật giáo khác.
Việc bảo vệ vị thế chính trị cho các cá nhân trong giáo hội bằng cách tránh né các giá trị tôn giáo cốt lõi như từ bi và hòa giải là rất đáng trách xét theo quan điểm đạo đức Phật giáo. Một giáo hội nên đặt lợi ích của chúng sinh và lòng từ bi lên trên hết, GHPGVN lệ thuộc vào chính trị, vâng lệnh chính quyền trong mọi lãnh vực quả thật không xứng đáng lãnh đạo Phật giáo Việt Nam.
Bài tiếp: Các ngụy tu sĩ trong GHPGVN
______________
Tham Khảo:
(1)https://vietnamthoibao.org/vntb-viet-nam-pha-hoai-ton-giao-nhu-the-nao-bai-3/
(3) https://langmai.org/tang-kinh-cac/la-thu-lang-mai/la-thu-lang-mai-31/ Lá thư Làng Mai 31 – 2008 – Làng Mai