Trang

Thứ Năm, 10 tháng 6, 2021

3417. TÀI LIỆU HỌC TẬP: GIÁO LÝ CĂN BẢN (tt, 2)

BÀI 2. 

LỄ THƯỢNG TƯỢNG.

(Bài 2, 3 tiết)

*: Mục đích. Cùng nhau nhận thức được: Đạo do đâu mà có? Đạo là gì? Đạo phù hợp với tài nguyên và môi trường để xây dựng nền văn minh tâm linh.

**: Yêu cầu. Nhận thức được tính nhất luật và mở trong pháp luật #. Sự bình quyền trong tôn giáo. Pháp luật tôn giáo phù hợp với triết lý tôn giáo. Thầy đến để ban ân lành cho nhân loại.

***: Kỹ năng. Biết cách trình bày cho bạn đồng môn hiểu đúng, làm đúng về Lễ Thượng Tượng. Người tôn giáo bạn, ngoại đạo hiểu ý nghĩa Thiên nhãn trong nền văn minh mới.


@@@

1/- Ý nghĩa Lễ Thượng Tượng.

Người tín ngưỡng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (ĐĐTKPĐ) khi có nơi trú ngụ ổn định thì nghĩ ngay đến việc Thượng Tượng tại tư gia. Lễ Thượng Tượng là nghi lễ đưa Thiên Nhãn và các lễ phẩm lên nơi thờ phượng. Đó là ngày rất thiêng liêng với người Đạo Cao Đài. Luật đạo qui định mỗi người đạo Thượng Tượng một lần. Khi sửa nhà hay di chuyển chỗ ở thì làm Lễ An Vị Thánh Tượng. Thiên Bàn là Thể Pháp quan hệ đến triết lý của Đạo Cao Đài về phương diện thiên nhân hiệp nhứt và bình quyền trong xã hội nên rất quan trọng.

1.1/- Thờ Thần Lương Tâm.

Thiên Nhãn là hình trạng của lương tâm toàn thể, làm nền móng cho Cao Đài, nghĩa là đền thờ cao trọng hay là đức tin lớn của Chí Tôn tại thế nầy, y như hai câu thi của Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm (Victor Hugo):

L’ oeil mystique seul verra la religion nouvelle,
La grande foi gite dans la conscience universelle.

Có Thiên Nhãn mới tường chánh giáo,
Tin Cao Đài do đạo lương tâm.

Thờ Thiên Nhãn là thờ tánh mạng mình và Chí Tôn, nghĩa là thờ lương tâm của toàn thiên hạ (Le culte de la conscience).

(Đức Hộ Pháp, ngày 15-8-Quí Dậu “Dl 4-10-1933”.)

Thượng Đế ngự trên ngôi Thái Cực, Thái Cực là hiện thân của đạo nghĩa là Thượng Đế đem Đạo đến với nhân loại qua thiên bàn tại tư gia (theo Thể Pháp).

1.2/- Đạo là gì? Đạo do đâu mà có?

Thầy dạy năm 1926, tại Chùa Gò Kén: Đạo tức là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần do theo đó mà hồi cựu vị. Đạo là đường của các nhơn phẩm, do theo mà lánh khỏi luân hồi. (TNHT Q 2, bài đầu tiên)

Kinh dạy: Đạo gốc bởi lòng thành tín hiêp.

Đức Chí Tôn dạy chi tiết hơn.

Đạo do nơi phàm mà phát ra, tiếp lấy cái thiêng liêng của THẦY mà hiệp đồng mới sanh sanh hóa hóa thấu đáo cả Càn Khôn. Người mà biết Đạo ấy là kẻ hữu phần, còn người chưa thấu đáo nền Đạo ấy là kẻ vô duyên. TNHT Q 2 ngày 18-1-1927 (15-11-Bính Dần).

1.3/- Sự bình quyền và tương thân trong tôn giáo.

Tín đồ dù giàu hay nghèo, trí thức hay bình dân, quan quyền hay thường dân, Nam hay Nữ, màu da sắc tóc, ngôn ngữ hay chính kiến đều thờ như nhau, cúng kiến như nhau. Nghĩa là trước mặt Thượng Đế tất cả đều bình quyền.

Tạo tình tương thân tương ái: Hội Thánh sắp xếp 12 nhà tạo thành một liên gia. Mỗi liên gia tổ chức cúng liên gia. Mỗi nhà cử một người, cứ chiều thì đến cúng nơi tư gia một người, cứ 12 ngày là đủ một vòng và bắt đầu vòng mới. Đó là cách thức tạo tình thân ái, sẳn sàng tương trợ nhau trong mọi tình huống.

Tại tư gia người đạo có đủ quyền cúng tứ thời, như vậy mỗi tư gia đã là một thiền đường.

1.4/- Ban quyền tự chủ khi biến sự.

Biến sự do cường quyền: Khi đạo bị cường quyền khống chế hay chiếm Tòa Thánh, Thánh Thất ... người đủ đức tin sẽ có đủ điều kiện để thực hành các nghi lễ mà không bị lệ thuộc vào tà quyền. Đạo tạo điều kiện để bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Chứng minh cụ thể là từ năm 1997 nhà cầm quyền Việt Nam lập ra chi phái 1997 và cho chi phái nầy chiếm Tòa Thánh Tây Ninh và nhiều cơ sở của Đạo nơi địa phương. Người Đạo Cao Đài lập năm 1926 không tùng chi phái có thiên bàn tại tư gia nên vẫn có phương tiện thực hành tín ngưỡng thường ngày lẫn quan, hôn, tang lễ mà không phải bị lệ thuộc vào chi phái 1997.

Biến sự do thời tiết hay dịch bịnh: Cuối năm 2019 cả thế giới bị ảnh hưởng bởi Coronavirus (Covid-19). Đa số các quốc gia phải đóng cửa biên giới, công dân phải hạn chế đi lại để hạn chế lây lan. Gặp lúc đi lại khó khăn do thời tiết…. Nhờ có Thiên Bàn tại tư gia nên người Tín đồ Cao Đài vẫn có điều kiện cúng lễ tại nhà.

2/- Pháp Chánh Truyền chú giải.

PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Chúng nó đặng đi khai đàn cho mỗi Tín Đồ.

CHÚ GIẢI: Lễ Sanh phải đi thăm viếng các nhà Đạo Hữu, thượng tượng khai đàn; dạy cho biết lễ nghi cúng tế Thầy, thay quyền cho Giáo Hữu.

Như ngày kia Đạo đã xuất dương ra ngoại quốc thì sẽ có nhiều dân tộc chẳng có thể thờ phượng như Nam, phận sự của Lễ Sanh đây mới ra sao? Tưởng chẳng chi khác hơn là đổi ra phần thăm viếng Tín Đồ, an ủi, dạy dỗ chăm nom dìu dắt trong đường Đạo cũng như đường Đời, thay quyền cho Giáo Hữu.

***: Sự uyển chuyển để xây dựng nền văn minh mới.

Nền văn minh nhân loại đang hưởng dụng là văn minh Thiên Chúa Giáo (niên lịch tính từ lúc Thiên Chúa giáng sinh, một tháng có 4 ngày Chúa Nhật).

Văn minh tâm linh một tháng có 02 ngày đi đến Thánh Thất, Điện Thờ (mùng 1 và 15) nên buổi đầu các nghi lễ tiến hành rất khó khăn với phương Tây. Thêm nữa khí hậu phương Tây buộc người dân phải thiết kế nhà ở khác với Việt Nam. Do vậy Thầy cho phép linh động. Nhưng sự linh động đó phải qua sự chuẩn thuận của Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh chứ không do một địa phương đơn phương quyết định. Triết lý của Quốc Đạo cho phép linh động nhưng cũng có qui trình. Về dịch lý đó là sự khó khăn từ văn minh Tứ Tượng sang Lưỡng Nghi.

***: Có thể chế giảm không lập Thiên Bàn tại tư gia, nhưng hể lập thì phải đúng thể pháp.

3/- Bố trí 12 lễ phẩm.



Số 1: Thánh tượng THIÊN NHÃN; 2: Đèn Thái Cực; 3: Trái cây; 4: Bông; 5: Nước trà (để bên hữu ấy là ÂM); 6-7 và 8: Ba ly rượu; 9: Nước trắng (để bên tả ấy là DƯƠNG); 10 và 12: Hai cây đèn; 11; Lư Hương. Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo in lần đầu năm 1936 cho đến bản in năm 1975 đều bố trí Thiên Bàn như nhau.

4/- Tiến hành nghi lễ Thượng Tượng

Trường hợp bình thường: Gia chủ sắp xếp nơi thờ Thầy và mua sắm 12 lễ phẩm trên thiên bàn. Mua thêm chuông mõ và vị chủ lễ trợ giúp việc bố trí thiên bàn cho hoàn tất.

Lễ Thượng Tượng tiến hành theo nghi thức có dâng tam bu. Sau  khi dâng tam bu thì thượng sớ và đọc ngũ nguyện rồi bãi đàn.

Nhập đàn trở lại tụng kinh Di Lạc Chơn Kinh và Kinh Cứu Khổ xong bãi đàn. Lễ Thượng Tượng đã hoàn tất.

Trường hợp đặc biệt. Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo dạy: Trong gia đình có người mất mà người trong thân chịu Nhập môn thì chức việc cứ Thượng Tượng cho Nhập môn rồi thiết lễ tang sự luôn. Gọi là dặc biệt vì thường thì có theo đạo rồi mới làm Lễ Thượng Tượng, nhưng đây là hứa nhập môn nên được làm Lễ Thượng Tượng trước, sau đó mới nhập môn.

5/- Những vấn đề về Thiên Bàn.

Thiên Bàn đã bị một số vị sửa đổi như sau.

5.1/- Thiên bàn hình chữ Chủ (Chúa).

 Giáo Hữu Thượng Lý Thanh. Thiên Bàn Thờ Tại Tư Gia (Bản trên internet- TỦ SÁCH CAO ĐÀI). Trưởng Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài kiểm duyệt: 10-7-Canh Tuất (dl. 11-8-1970). In 01-8-Canh Tuất (1970).

* Nhận xét:  HH Giáo Hữu đã thay đổi vị trí các lễ phẩm (sắp xếp cho 03 hàng bằng nhau; giử nguyên số thứ tự) và giải thích đó là chữ CHỦ (cũng đọc là chữ CHÚA).

5.2/- Thiên Bàn của chi phái 1997.

(Chi phái 1997 thay đổi vị trí “sắp xếp hàng thứ nhì và thứ tư bằng nhau. Thu ngắn hàng thứ 3. Còn số thứ tự thì giử nguyên).

5.3/- HH Hiền tài Nguyễn Văn Hồng sửa Thiên Bàn.

1/ Thánh tượng Thiên nhãn. 4/ Dĩa trái cây. 2/ Đèn Thái Cực. 3/ Bình bông. 6/ Tách nước trà. 8, 7, 9/ Ba ly rượu. 5/ Tách nước trắng. 10 và 11/ Cặp đèn Lưỡng Nghi. 12/ Lư hương.

HH Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng đã thay đổi số thứ tự và vị trí 12 lễ phẩm (BƯỚC ĐẦU HỌC ĐẠO trên internet-TỦ SÁCH CAO ĐÀI).

6/- Những vấn đề về Thiên Nhãn & Thánh Tượng.

6.1/- Thiên nhãn của ĐĐTKPĐ khác với bên Pháp Môn.

Đạo Sử Q 2. Ngày 16-01-1927 (âl. 13-12-Bính Dần): Ðức Thái Bạch dạy lập Tân Luật & thâu Môn Ðệ.

Thượng Trung Nhựt, những mấy miếng Thiên Nhãn Hiền Hữu cũng nên thâu nạp cho đẹp lòng Thầy... Cười....

Chiêu khẩn vái thường ngày ăn năn sám hối, lo tận tâm cùng chư Hiền Hữu hành Ðạo.

Thầy xin Lão tha, song tha sao cho tiện, nếu chẳng giữ nghiêm, Ðạo phải loạn.

Lão chẳng tha, nhưng mà Thiên Nhãn chư Hiền Hữu thâu dụng đặng cho thuận theo Thánh ý, lại cũng chỉ rõ cho đời hiểu rằng chư Hiền Hữu đã mang hàm oan buổi trước vậy.

6.2/- Thánh Tượng hiện nay chưa hoàn chỉnh.

Vi bằng Hội Nhơn Sanh 1974 trang 475 & 476.



6.3/- Pháp lý đổi Thánh Tượng.


6.4/- Đại Hội Nhơn Sanh Quyết nghị: xin Hội Thánh xem xét lại.


6.5/- Thỉnh cầu: Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh dùng mẫu của Đức Hộ Pháp đã ban hành.



Đức Hộ Pháp cầm quyền Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng là cầm quyền Chí Tôn tại thế để ban hành Thánh Tượng trên đây. Chiếu theo Thiên Thơ (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển) thì chỉ có Quyền Vạn Linh mới có thể cầu xin thay đổi. Do vậy thỉnh cầu Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh giữ nguyên mẫu.

Hơn nữa Hội Thánh đã thay đổi mà không đạt được sự đồng thuận của Ba Hội thì lại càng không nên đổi.

Chú ý: Thọ bửu pháp (10 ngày chay), luyện đạo (trường trai); nhu vậy thọ bửu pháp và luyện đạo là hai việc khác nhau.

@@@

TÌM HIỂU THÊM: Pháp Chánh Truyền liên quan đến Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo như thế nào?

1/- PCTCG ban hành ngày 15-2-Tân Mùi (02.04.1931) phẩm Chánh Phối Sư có đoạn:

Nhờ Ngài và Hội Thánh cầu khẩn, Thầy đã giáng bút truyền các bí pháp ấy cho Hộ Pháp (2).

 (2)  Mừng thay cho nhơn loại chút ít rồi. Hội Thánh Chơn  Truyền Tân Pháp đã đạt đặng như phép "Giải Oan", phép "Khai Sanh Môn", Ban Kim Quan vân vân..., lại còn nhiều bí pháp nữa mà Hộ Pháp chưa có lịnh truyền và lại bị chúng sanh và Hội Thánh còn mờ hồ không nạp dụng. Ngày nay chẳng biết các Đấng Thiêng Liêng là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại Bát Quái Đài đã thọ lịnh của Thầy mà hành Pháp vì thuộc về quyền hành của các Đấng ấy; ngày nay mới tính sao? Trong các bí pháp có cơ mầu nhiệm đắc Đạo, bây giờ các Đấng ấy có cho hay là không? Thảm! ...(Cười), nếu Lão có phương chỉnh đốn nền Đạo lại thì đặng, bằng chẳng vậy, thì không có một người đắc Pháp, Cửu Trùng Đài cũng đã yểm quyền Bát Quái Đài mà chớ: Thật vậy đó chút!

2/- Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, ban hành 1936.

Lời tựa viết: … Chúng ta thầm xét thì đủ hiểu rằng: Đã trải qua mười năm Chí-Tôn mới mở cơ tận độ. Cơ tận độ nhơn sanh duy kể từ ngày ban Tân-Kinh nầy mà thôi.

Thương thay cho những kẻ vô phần chịu phận thiệt thòi qui liễu trước ngày Tân-Kinh chuyển Pháp. Ấy cũng là quả kiếp của nhơn sanh do Thiên-Thơ tiền định. Nếu chúng ta thương tưởng thì duy có một phương độ-rỗi là trì tụng Di-Lặc Chơn-Kinh hầu các đẳng linh-hồn đặng siêu-thăng Tịnh-độ.

NHẬN XÉT:

2.1/- Khi ban hành PCTCG thì Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo chưa có. Đến khi có Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo thì Đức Hộ Pháp mới viết KINH GIẢI OAN và các bài khác. Các Đấng Thiêng Liêng là chư Thần, Thánh, Tiên, Phật tại Bát Quái Đài đã thọ lịnh của Thầy mới ban cho Kinh.

(((Các Đấng ban kinh có ghi sau hay trước các bài kinh.

Kinh Cúng Tứ Thời đã có từ trước ngày mở Đạo (1926) sau đó mới có thêm các bài khác (1935) để tạo thành Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo.

Từ có Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo thì Cửu Trùng Đài mới có điều kiện để thi hành các pháp để độ rỗi con cái Đức Chí Tôn.

Như vậy Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo chính là đáp án mà Đức Lý Giáo Tông nêu ra cho người Đạo lưu ý.)))

2.2/- Câu: … Cửu Trùng Đài cũng đã yểm quyền Bát Quái Đài có ý nghĩa thế nào?

Gió vốn không có hình dạng và không ai thấy gió. Nhưng nhờ vào mặt nước lao xao, nhờ vào cành lá rung rinh mà chúng ta đồng ý nhau là có gió. Ấy là nhờ cái hữu hình để đoán nhận vô hình.

Thầy lập ĐĐTKPĐ là để ban thưởng cho nhân loại. Nhưng Thầy và các Đấng vốn vô hình, vô ảnh nên nhơn loại khó mà biết được. Do vậy mới cậy Cửu Trùng Đài hành pháp để nhơn sanh biết. Mà Cửu Trùng Đài chưa thọ đắc các pháp làm sao hành pháp?

Thầy đến để độ rỗi cho nhân loại. Nhưng Thầy cao không với tới, khuất không rờ đặng nên nhơn sanh mấy ai đã nhận biết, cho nên Thầy muốn bày ra cho nhơn sanh Thấy rằng Thầy đến ban ân cho nhân loại. Thầy phân cho Cửu Trùng Đài lo về CẦU RỖI, nghĩa là làm nhịp cầu để dâng lên cho Bát Quái Đài SIÊU RỖI. (2)

2.3/- Cầu rỗi là tạo một đầu cầu, làm một nhịp cầu để Bát Quái Đài ban ân. Trong Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo ngay sau các bài kinh cầu thì phải đọc tiếp một bài kinh nữa.

Các vị Chức Sắc, Chức Việc đương quyền hành chánh chính là phương tiện để Bát Quái Đài siêu rỗi các chơn hồn khi lìa trần và an ủi tâm hồn con cái Đức Chí Tôn nơi biển trần khổ. Nghĩa là các Đấng không có thể xác nên phải cậy Cửu Trùng Đài hành pháp về hữu hình và các Đấng hộ trì phần vô vi. Nghiệp hữu hình tượng đủ vô vi là như vậy.