Trang

Thứ Ba, 16 tháng 1, 2018

2514. BNS HÒA BÌNH CHUNG SỐNG 04.

Ra ngày 15. 01. 2018.
ĐỨC TIN LÀ CHÌA KHÓA.
Từ thử nước Nam chẳng Đạo nhà,
Nay ta gầy dựng lập nên ra.
Ví bằng ai hỏi sau bao nã,
Rằng trẻ noi sau biến hóa già.
Thiên Thơ.
Gần đây có một số anh chị báo tin về quyết định từ bỏ con đường tranh đấu cho quyền thực hành tôn giáo của Đạo Cao Đài 1926 tại Việt Nam và tham gia vào các đảng phái chính trị.
Các anh chị lý luận rằng nhà lãnh đạo đảng phái đó đi thiền định trên sa mạc hàng chục năm rồi được lịnh của thiên thần bảo phải về cứu nước Việt Nam nên mới lập ra đảng phái. Cho nên nhà lãnh đạo nầy cũng nói về bác ái, công bằng… Y NHƯ ĐẠO CAO ĐÀI.
Đặc biệt là luận cứ:

Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền một cách độc đoán, tàn bạo với dân, vơ vét tài nguyên và bám vào Trung cộng để tồn tại….
Tình thế của đất nước hình chữ S hiện nay y như lời Đức Hộ Pháp thuyết đạo vào ngày 26. 09. 1950 (Trung Thu Canh Dần):
Giờ phút quyết liệt này Bần Đạo tiên tri rằng: Nếu quốc dân Việt Nam không tin với nhau, để cho Bắc thuộc lần thứ hai nữa, thì không có phương pháp nào giải ách nô lệ cho đó vậy.
Đó là duyên cớ để các anh chị đi đến quyết định: phải tham gia vào các đảng phái chính trị để lật đổ chế độ cộng sản, bảo vệ giang sơn rồi mới tính đến chuyện tôn giáo.
Tôi xin có mấy nhận định:
I/- Che dấu thực chất của một đảng phái chính trị.
Những nhà lãnh đạo nầy biết rất rõ rằng nhiều người Việt Nam vốn có tinh thần tín ngưỡng nên cách hay hơn hết là làm sao đem màu sắc tín ngưỡng để che dấu thực chất của họ là một đảng phái đang chờ thời cơ để nắm chánh quyền hay chờ thời cơ để liên hiệp nhau tạo thành bộ máy cai trị người dân mà không chắc rằng họ cho người dân có quyền lựa chọn. Bằng cớ là họ đã xưng những chức vụ to lớn, xưng tướng, xưng tá tùm lum ra đó.
Điều nầy hoàn toàn khác với bản sắc của Đạo Cao Đài 1926: Không chống chánh quyền, không theo chánh quyền và không tham gia chính quyền.  Đó là làm theo lời dạy của Đức Chí Tôn: Đạo và chánh trị chẳng có buổi liên hiệp cùng nhau.
Họ có tham vọng nhưng không có thực tài nên lợi dụng giáo lý tôn giáo rồi đem pha trộn với lời Đức Hộ Pháp tạo ra sự mơ hồ để lợi dụng. Lời giảng của Phật, của Chúa từ mấy ngàn năm trước thì không thể nói những điều cận kề về hiểm họa phương Bắc như Đức Hộ Pháp đã nhấn mạnh rất nhiều lần. Cho nên muốn tìm luận cứ có liên quan đến thời cuộc thì tìm đến lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp là có đầy đủ. Món hàng có giá trị thì mới bị lợi dụng, Đức Hộ Pháp là giáo chủ Đạo Cao Đài thì tư tưởng, suy nghĩ của Ngài có tầm vóc chiến lược cho tôn giáo, dân tộc hay nhân loại nên những giá trị ấy bị lợi dụng cũng là lẽ đương nhiên.
Tôi đã từng gặp những sĩ quan cấp tá công an cộng sản giả vờ mộ đạo lên núi Bà Đen tịnh luyện ban ngày (còn ban đêm thì nhậu nhẹt lu bù) rồi làm mấy bài thơ nói về Hội Long Hoa, nói về sự cao cả của Đạo Cao Đài, về Đức Di Lạc rồi vào vai tầm đạo để thâm nhập vào hàng ngũ Cao Đài 1926 để lấy tin và gài bẫy cho công an bắt. Sau mổi phi vụ thì các vị đó thăng quan tiến chức nên đố ai thấy được họ ở nơi am cốc vừa qua.
II/- Muốn hiểu đúng: Phải nhìn cả hệ thống.
Sự lo lắng của Đức Hộ Pháp về hiểm họa đến từ phương Bắc là điều hiếm thấy so với các nhà lãnh đạo tôn giáo thời điểm năm 1950. Vậy muốn tránh hiểm họa phương Bắc người theo Đạo Cao Đài 1926 phải làm gì?
 Muốn tránh hiểm họa phương Bắc người Đạo Cao Đài là phải bảo tồn và phát huy chánh pháp của Đạo Cao Đài 1926. Bởi vì trong chánh pháp của Đạo Cao Đài 1926 có kế sách để bảo tồn quốc hồn quốc túy. (Chớ chẳng phải vứt bỏ đường lối của đạo để đi theo các đảng phái. Sic.)
Đây chính là sự đặc biệt của tôn giáo Cao Đài.
Tôi xin chứng minh như sau.
1/- Đạo lập quyền cho nhân loại.
Về hành chánh tôn giáo: Đạo phân ra lập pháp, hành pháp và tư pháp rất phân minh. Pháp Chánh Truyền được xem như hiến pháp của tôn giáo ấn định rõ bộ máy thượng tầng: Có bao nhiêu cấp. Mổi cấp có bao nhiêu phẩm. Quyền hành mổi phẩm rõ ràng. Muốn thăng phẩm phải làm như thế nào. Đặc biệt là có thiết kế quyền hành của Nữ phái song song với quyền hành Nam phái. Nghiêm cấm sửa đổi Pháp Chánh Truyền trong mọi trường hợp. Đây là văn bản pháp luật cao nhất nên tất cả các qui định (luật) sau đó phải tùng theo pháp.
Pháp Chánh Truyền ban quyền cho hạ tầng minh bạch và không giới hạn số lượng của hạ tầng. Do vậy mà thượng tầng không thể lấn lướt hạ tầng.
Nhìn sâu vào triết lý của Pháp Chánh Truyền thì chính là đưa thượng tầng vào khuôn khổ không để cho phát sinh tùy tiện theo ý muốn của thượng tầng. Cho Hạ tầng phát triển không giới hạn chính là bảo vệ hạ tầng không cho thượng tầng can thiệp vào.
Về chánh trị đạo: Bộ máy hành chánh tôn giáo là để thực hiện những điều 03 Hội lập quyền vạn linh đã định và chịu sự kiểm soát của 03 Hội. Ba Hội lập quyền ví như soạn tuồng, hành chánh là đào kép ra diễn trước nhơn sanh. Đào kép phải trình diễn theo kịch bản chớ chẳng thể tự tung tự tác. Nhân sự trên sân khấu thì không được quá con số đã định.
Qui định của tôn giáo minh bạch để ai cũng hiểu, nhờ vậy tín đồ mới biết và kiểm soát được (dân phải biết rõ thì dân mới đủ quyền làm chủ). Khi có sự cố thì biết ngay được là do đâu (tội qui vu trưởng) chớ chẳng thể đổ thừa do bộ phận thư ký.
2/- Đạo của hòa bình, dân chủ, tự do.
Trường thi công quả của Đức Cao Đài lập kỳ ba nầy có chủ đề:
Cao Thượng Chí Tôn Đại Đạo Hòa Bình Dân Chủ Mục.
Đài Tiền Sùng Bái Tam Kỳ Cộng Hưởng Tự Do Quyền.
Theo đó thì chủ trương của đạo là đoàn kết, và hổ trợ nhau (cộng hưởng) để xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ, tự do.
Đạo kiến tạo tinh thần hòa bình để chung sống. Thiết kế cơ chế dân chủ có nhân quyền và tự do trong đạo đức. Nền đạo muốn được danh nghĩa là chơn chánh phải làm cho người dân mạnh mẽ, tự nhiên nhà nước nhà nước phú cường. Dân là gốc của nước cho nên đạo chủ trương làm cho dân mạnh mẽ thì mọi điều tốt đẹp sẽ đến. Cái gốc đã mạnh mẽ, hoa trái phải tốt tươi. Đạo không kêu gọi làm cho dân giàu như những chủ nghĩa mị dân. Đạo làm cho dân mạnh thì cái giàu tức khắc sẽ tới. Đó là cách làm theo chủ trương vô vi của Đức Lão Tử.
Nhìn vào Đảng cộng sản cai trị đất nước hiện nay, chúng ta thấy họ đã tước đoạt hết những quyền cơ bản của người dân, dân bị đảng coi như súc vật nhưng chúng vẫn kêu gào xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh. Đảng đang đưa dân tộc đi trên con đường không bao giờ đến.
Đạo chủ trương nâng người nghèo khó về vật chất, thiếu hiểu trong xã hội thành người có cuộc sống ấm no và có hiểu biết về hòa bình, dân chủ, tự do và biết hổ trợ nhau để đạt được cứu cánh thì đó là đại kỵ với cộng sản.
Muốn có xã hội hòa bình thì đạo chủ trương làm cho dân mạnh:
Cầu xin trăm họ bình an,
Nước giàu dân mạnh thanh nhàn muôn năm.
Đạo Cao Đài và cộng sản khác nhau từ triết ý cho đến hành vi, cho nên cộng sản ra bản án Cao Đài ngày 20. 07. 1978 để diệt đạo là điều dễ hiểu.
3/- Đạo của tình thương và nghĩa hiệp.
Xưa Đức Khổng Tử dạy về công bình: điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người.
Nay Đạo Cao Đài dạy: mình muốn nên đạo thì phải giúp cho người nên đạo trước. Hể mình giúp cho người nên đạo thì ngôi vị mình tự nhiên sẽ có theo nguyên tắc: Dâng công đổi vị.
Hội Thánh Cao Đài đã dùng 05 phương án: gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo để nâng cao dân đức, dân trí, dân sinh. Đạo đã biến vùng đất rừng, nghèo thổ nhưỡng thành một vùng trù phú và có nếp sống văn hóa đặc sắc. Châu Thành Thánh Địa là nơi có nhiều người ăn chay nhất Việt Nam. Biết chia vui sớt nhọc với nhau khi hữu sự nơi xóm riềng, một người mãn phần thì cả xóm chung lo, cúng tế thì dùng toàn đồ chay và hoàn toàn miễn phí từ A à Z.
Hội Thánh kiến thiết Tòa Thánh là cơ sở trung ương của Đạo với những thể pháp ẩn tàng văn hóa Đông Tây để xây dựng xã hội mới. Đưa nhân loại từ địa cầu 68 (là địa cầu hiện tại) lên địa cầu 67 với nếp sống thăng bằng giữa tinh thần và vật chất. Văn minh Cao Đài hướng dẫn nhân loại liên lạc với thế giới vô hình bằng cơ bút.  Đó là nền văn minh tâm linh.
Hội Thánh đã kiến thiết vùng thánh địa với tỷ lệ đường giao thông rất cao, không nơi nào ở Việt Nam sánh kịp. Đạo hoàn thành các công việc trên trong vòng 50 năm (từ 1926- 1975).  Thành quả sơ lược bên trên là do nơi Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng có sứ mệnh trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chỉ dẫn cho Hội Thánh thực hiện.
III/- Không đủ đức tin cho nên bỏ cuộc.
Ngày 01. 02. 1927 Thầy dạy:
… Ấy vậy các con phải lưu tâm mà chấn hưng mối Đạo; ấy là kế bảo tồn quốc túy, lại là phương thoát tục. Cơ Trời Thầy không lẽ tỏ ra đây, song các con nên biết xét mình là đứng vào địa vị tối cao hơn muôn loại, nên các con phải có trí độ phi phàm thì mới có đủ tư cách làm người… (Xin xem trọn bài đăng sau bài phân tích nầy.)
Như vậy những điều trình bày trên đây chính là từ trong lời dạy của Đức Chí Tôn mà có.
Đạo Cao Đài có các bài bản trên đây thì đủ tư cách để xây dựng xã hội, bảo tồn quốc hồn, quốc túy, bảo tồn được biên cương, biển đảo.
Người cộng sản đã nhìn ra chân tướng của Đạo Cao Đài 1926 cho nên ra sức diệt đạo để bán đứng giang sơn cho Tàu cộng, và từng bước xóa bỏ văn hóa Việt thường. Cho nên chúng ta tranh đấu cho quyền thực hành tự do tôn giáo của Đạo Cao Đài 1926 chính là bảo vệ quyền làm người, bảo vệ quốc hồn, quốc túy nói trắng ra bảo vệ giang sơn nòi giống.
ĐẤNG MINH QUÂN trong thời toàn cầu hóa không phải là một con người như thời văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp mà chính là một chính nghĩa, một tổ chức có đường lối, có công thức, có mô hình, có bộ máy để xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ, tự do.
Thời văn minh nông nghiệp bàn chân của Đức Chúa đi trước nhân loại nên họ đã đóng đinh bàn chân ấy. Bàn tay của Đức Chúa muốn nâng đở người nghèo khổ, yếu kém nên bàn tay ấy cũng bị đóng đinh; bởi tà quyền không muốn điều tốt đẹp của Chúa được thực hiện.
Thời năm châu chung chợ bốn biển chung nhà Đức Di Lạc Vương ra đời phải ẩn mình trong lớp áo Hộ Pháp Phạm Công Tắc để cho kẻ hung bạo không bị cái tội như tội đóng đinh Đức Chúa. Ngài đã đến và xây dựng xong bài bản cho Đạo Cao Đài thực hành như một phòng thí nghiệm để kiểm chứng.
Khi đã kiểm chứng xong thì chúng ta phải biết giá trị của MINH QUÂN CHUYỂN THẾ và trình ra thế giới. Cho nên nếu đủ đức tin nơi Chí Tôn thì mổi khi có biến sự, có điều chi quá sức hiểu của mình thì đi tìm học trong thiên thơ (là 02 quyển Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Ngoài thiên thơ còn cha, còn chú bác (Ngoài nữa còn cha còn chú bác, Làm gương cho đáng mới nên trò) theo đó nếu không hiểu thì quay lại với chính mình bằng cách tịnh tâm để cầu khẩn cho mình hiểu được chân lý ấy là người đủ đức tin nơi Thầy Trời. Còn như không đủ đức tin thì đi tìm tới các đảng phái chính trị rồi cho họ là minh quân và xông bờ lướt bụi, đi quanh kiếm quất mà cái kết quả chẳng biết thể nào.
Nhiều người theo Đạo Cao Đài biết rằng khi Đức Chí Tôn đến dạy đạo ngài Phạm Công Tắc thưa rằng: Đất nước con còn nô lệ, con phải góp phần gở bỏ ách nô lệ rồi mới tu được. Đức Chí Tôn dạy rằng: Việc đó con muốn lo cũng lo không được, vậy cứ lo cho đạo đi còn việc phục quốc để Thầy tính cho. Gương xưa còn đó nhắc lại để cùng nhau tin rằng theo Đức Chí Tôn chính là bảo tồn nòi giống và cũng là phương thoát tục./.
Đạo Hữu Dương Xuân Lương.
Skype: thu.john2.

Thầy lấy làm không bằng lòng cho mấy đứa vắng mặt hôm nay. Ngày giờ thôi thúc mà các con còn dụ dự giữa chừng. Nền Đạo cao thâm là mấy, chí phàm không thấu lý sâu; nếu các con chẳng ra khỏi vòng trần tục, thì các con chẳng là luống công theo Thầy kể đã đầy năm. Kiếp trần ai lắm nỗi Vày vò, các con ở nhầm thời đại nầy gặp đặng lắm cuc tân toan, nên mới để ý vào đường Đạo-Đức. Nếu chẳng vậy thì các con cũng đã như ai, đem thân vùi dập trong chốn lợi quyền, tranh tranh cạnh cạnh biết ngày nào rồi?
Ấy vậy các con phải lưu tâm mà chấn hưng mối Đạo; ấy là kế bảo tồn quốc túy, lại là phương thoát tục. Cơ Trời Thầy không lẽ tỏ ra đây, song các con nên biết xét mình là đứng vào địa vị tối cao hơn muôn loại, nên các con phải có trí độ phi phàm thì mới có đủ tư cách làm người. Các con nên biết Thầy sanh ra mỗi chủng tộc đều có đặc biệt một phần linh diệu riêng, mà cũng vì nhơn loại không chịu khó tìm tòi cho ra lẽ thiên nhiên, cứ thấy những điều cận lợi mà quên hẳn lương tâm; chẳng hay thương mà hay chém giết lẫn nhau; sanh phương tiện thông đồng không muốn, lại tìm kế sát hại lẫn nhau.
Nếu các con vì Đạo Thầy là Đạo gìn công-lý mà biết mấy sự đó tránh đi, và rủ nhau hiệp làm mối Đại-Đồng, thì chẳng những thuận lòng Trời, mà nhơn-loại đặng gội nhuần ân-huệ. Các con hiểu à!












THẢM TRẠNG QUỐC DÂN VIỆT NAM
Tại Đại Đồng Xã trong dịp Tết Trung Thu, ngày rằm tháng 8 năm Canh Dần (1950)

Nói về cái thảm trạng của quốc dân Việt Nam hồi thuở lập quốc, một tình trạng thống khổ đã làm cho Bần Đạo phải nghẹn ngào. So sánh lại 5 năm bị đồ lưu nơi Hải Ngoại thảm khổ đường nào, chẳng cần minh tả ra cả thảy con cái Đức Chí Tôn cũng đều thấu đáo, và quyết định giá trị thế nào?
Bần Đạo xin quả quyết rằng: Thống khổ 5 năm đồ lưu nơi Hải Ngoại không bằng đã thấy cái thống khổ hiện trước mắt một cái tấn tuồng đau đớn là nòi giống Việt Nam tàn hại lẫn nhau, Bần Đạo đã trọn một kiếp hy sinh để tạo hạnh phúc cho toàn thể con cái của nòi giống Lạc Hồng, chính Bần Đạo cũng là một phần tử trong ấy.
Cái tranh đấu đem cả sanh mạng ra để làm giá trị chung cho đời cho Đạo thì chưa có biết thối bước trước tình trạng khó khăn nào, dầu thống khổ dường bao? Không có năng lực nào làm ngăn trở bước đường của Bần Đạo được. Quyết thắng, quyết đi cho đến mục đích cuối cùng.
Thật ra là Hành Chánh Đạo trót cả một đời chưa có khi nào làm cho Bần Đạo đã thấy, hiện nay là quốc dân Việt Nam đương chiến đấu đặng giải ách nô lệ cho quốc dân đã chịu tám mươi năm, đem văn hiến, đem tinh thần tối cao của nòi giống để làm giá trị, là phương pháp thâu đoạt cho đặng độc lập và thống nhứt thiệt hiện đối với nước chinh phục chúng ta là Pháp. Cái yếu điểm tranh đấu với Pháp là cái quan niệm giải phóng cho nòi giống Việt Nam.
Hôm nay đã gần đạt thành mục đích, chính một trường thảm khổ đã trải trước mắt nòi giống Việt Nam là người ta đem cho nền độc lập thống nhứt Việt Nam bằng chủ nghĩa cộng sản, nhưng Bần Đạo không phiền trách cái tranh đấu của họ, bao giờ họ cũng tranh đấu để tạo hạnh phúc chung cho nòi giống họ đặng trọn quyền. Duy có một điều là họ chuyên quyền tàn sát nòi giống của họ.
Bần Đạo chỉ sợ có một điều là ách nô lệ 80 năm, với một quốc dân hai mươi lăm triệu này chưa có thể chiến thắng đặng, sợ e cho những kẻ quả quyết dùng thuyết duy vật ngoại bang đem vào đây cho nòi giống Việt Nam phải điêu tàn, sẽ trở nên người Mườn, Mán, Mọi hay là Lô Lô chẳng hạn.
Bây giờ họ còn chung sống trong hoàng đồ của chúng ta, chúng ta phải coi chừng, nòi giống Việt Nam phải cho khôn ngoan sáng suốt, vận mạng tồn vong hay vinh quang đều ở trước mắt chúng ta, chúng ta đừng để cho kẻ thù địch mưu chước lợi dụng xương máu của chúng ta, mà nòi giống Việt Nam phải đi đến con đường tự diệt và tự mình hại lấy mình thì không phương pháp nào? Dầu cho Đức Chí Tôn cứu vãn tình thế này định tương lai cao trọng thế nào cũng không cứu vãn đặng; phải thương yêu với nhau, hiệp đồng cùng nhau, mới có thể quyết thắng đặng.
Giờ phút quyết liệt này Bần Đạo tiên tri rằng: Nếu quốc dân Việt Nam không tin với nhau, để cho Bắc thuộc lần thứ hai nữa, thì không có phương pháp nào giải ách nô lệ cho đó vậy./.





















Jeudi 13 Janvier 1927 (10-Tháng Chạp Bính Dần).

THÁI BẠCH

Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội, chư Nhu,
Ngồi kiết tường.
Hộ Pháp Hiền Hữu ngâm hai bài trước, Thượng Phẩm Hiền Hữu hãy đề hai bài số 1 và số 2 Lão còn kết.
Chú giải: Chinh chuyên: chinh là nghiêng; chuyên là chở. Chở nghiêng nghĩa là chở nặng nề.
Thần Huệ Kiếm: Huệ trí vỉ vi kiếm tác Ðạo giả: Lấy huệ trí làm gươm mà hành Ðạo...
# 3:
Dân dưới phép tụng đình,
Nước dưới phép đao binh.
Nhà dưới phép luật hình,
Còn chi hai chữ thái bình.
Ngửa nghiêng chín bệ gập ghình ba châu,
Non sông nhuộm một màu sầu.
Nền giao cỏ láng sân chầu sương phong,
Dân chẳng hiệp đồng,
Quan chẳng vị công,
Vua chẳng phải giòng,
Về Ðông hết kế Tử Phòng,
Ðoạt binh thơ chẳng Trương Tòng mưu mô.
Tiếc thay một gánh cơ đồ,
Xa thơ khuất dấu ngọn cờ bặt tăm.
Nòi anh phong đó, cơ nghiệp hỏi ai cầm?
# 4:
Cũng xương, cũng thịt, cũng khí, cũng huyết Nam,
Cũng văn, cũng pháp, cũng phong, cũng tục Nam,
Cũng xã tắc, cũng triều đình của nhà Nam.
Ngôi Tiên đã lấm gót phàm,
Kẻ chăn dân lại ra làm con buôn.
Dân như cá chậu gà chuồng,
Tiếng oan trăm họ trêu buồn ngậm than.
Bát Quái:
Quốc gia nghèo nàn, dân khó mở mang,
Lăng điện phá hoại, Văn miếu bỏ hoang,
Trí quân lánh mặt, hồn nước điêu tàn.
Gặp cơn xúi ác giục loàn,
Người ngay tránh dạng, đứa gian khoe mình.
Tỷ như một đám bù nhìn,
Cân đai một vẻ thân hình một nơi.
... Ấy cũng gọi đời .......
Lão dặn Thượng Phẩm phải biên số, là vì điệu văn Ðộng Ðình chẳng phải mỗi điệu vậy là dứt, Lão còn kết thêm nữa.
Tỷ như:
Bài số một, gọi là điệu Thái Cực.
Bài thứ nhì, gọi là điệu Lưỡng Nghi.
Bài thứ ba, gọi là điệu Tứ Tượng.
Bài Lão nói là điệu Bát Quái.
Vậy Lão làm tiếp rồi sẽ chỉ....
Bài số 4:
.... Hộ Pháp giải nghĩa.... Vậy thì gọi là điệu Thái Cực là sao? Lão chỉ cho Thượng Phẩm: - Ðọc bài số 1, khi nhập đề như vậy, thì là không không, chưa hiểu căn cước đề thân, thì gọi là nhập: Hư Vô. Thái Cực là vì đó một tiếng. Nhập lại Hư Vô.
Bài số 2 ba tiếng là Tam Giáo. Sĩ dân hai tiếng ấy là Lưỡng Nghi.
Bài số 3, ngũ ngôn ấy là Ngũ Chi. Bốn chữ ... Tứ Tượng là đó.
Bài số 4, chín chữ là Cửu Lưu đó. Tám chữ ... ấy là Bát Quái.
Lão sẽ tiếp điệu Biến Hóa Vô Cùng rồi mới kết cho toàn điệu.
Chư Ðạo Hữu lấy điệu văn ấy làm ra mỗi người một bài cho Lão sửa. Phải tùy theo từ chữ, từ giọng, vậy mới trúng niêm luật; bài của Lão chỉ dùng làm kiểu đó thôi...




Liên Hiệp Quốc

A/HRC/28/66/Add.2

    

ĐẠI HỘI ĐỒNG.
Distr.: General
30 tháng 1 năm 2015
(Bản dịch của BPSOS  và Liên Minh cho một Việt Nam Tự Do và Dân Chủ)
Hội đồng Nhân quyền
Kỳ họp thứ 28
Chương trình nghị sự 3
(Tiếp theo 1.)
TRANG 07
loại hoạt động - khi thái độ của cá nhân hay cộng đồng bị xử- được xem là đi ngược lại với lợi ích của Nhà nước. Chính phủ có thể dùng ưu quyền này để giới hạn các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng vì các nhóm đó có khả năng kêu gọi và tổ chức tín đồ.
25/. Báo cáo viên đặc biệt đã suy diễn ra sau nhiều cuộc thảo luận trong chuyến viếng thăm này rằng sự tối nghĩa trong các ngôn từ về luật pháp không chỉ là một vấn đề lý thuyết. Điều 258 thường được viện dẫn và áp dụng để bắt giữ những người chống lại các hạn chế nhằm vào quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, hay nhân quyền khác, chẳng hạn như tự do ngôn luận và tự do lập hội và hội họp. Khi đặt câu hỏi về các tù nhân lương tâm, Báo cáo viên đặc biệt đã được đảm bảo rằng không có vụ việc nào xảy ra như vậy ở Việt Nam. Thực tế cho thấy số người bị kết tội theo Điều 258 và tính chất mơ hồ của điều này đã khiến cho sự đảm bảo đó thật là khó tin.
 C/.  Quy định hành chính về hoạt động và thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng
26/.  Một vấn đề chính yếu trong hầu hết các cuộc thảo luận của chuyến thăm viếng này liên quan việc đăng ký của các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng. Mặc dù Điều 5 của Pháp lệnh 21 quy định rằng Nhà nước đảm bảo quyền thực hành các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, Pháp lệnh 21 có rất nhiều các quy định được tăng cường bởi Nghị định 92 liên quan đến các hoạt động của cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng.
27/.  Nghị định 92 ấn định các điều kiện và đòi hỏi việc đăng ký cho hoạt động và điều hành các hoạt động tôn giáo hoặc tín ngưỡng. Các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng phải xin giấy phép cho việc xây dựng hay chỉnh trang các nơi thờ tự; họ phải trình bày cho cơ quan chức năng địa phương một tổng quan về hoạt động hàng năm đã được đặt ra; họ phải thông báo cho cơ quan chức năng về việc phong chức sắc giáo sĩ và trong một số trường hợp phải được sự chấp thuận của chính quyền; và họ phải được chính quyền địa phương cho phép việc cử hành các nghi lễ công cộng. Như vậy, các quy định nêu trong Pháp lệnh 21 và Nghị định 92 bao gồm các nghĩa vụ liên quan đến thông tin và thông báo cũng như cho phép chính thức trước khi được thực hành một số hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng.
28/.  Các yêu cầu quá mức trong các quy định này chắc chắn sẽ là những gánh nặng cho các hoạt động của cộng đồng tôn giáo. Nghị định 92, với những đòi hỏi hành chính khác, đã làm cho sinh hoạt của các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng khó khăn hơn, mặc dù khoảng thời gian mà các cơ quan chức năng phải trả lời được rút ngắn đi so với trước đây. Trong trường hợp quyết định bác đơn, giới thẩm quyền bắt buộc phải nêu rõ lý do.
29/.  Theo Điều 16 của Pháp lệnh (6) [6], các tổ chức phải đáp ứng một số tiêu chí để được công nhận về mặt pháp lý.
Những điều kiện này nhằm mục đích, ngoài những lý do khác, đảm bảo sự tôn trọng "những mỹ tục và thói quen tốt đẹp cũng như lợi ích quốc gia". Điều 6 của Nghị định 92 cũng ấn định là các đòi hỏi khác phải được đáp ứng trước khi đăng ký trong đó có thời gian mà các tổ chức tôn giáo đã sinh hoạt về tôn giáo thường xuyên ít nhất là 20 năm kể từ ngày được chấp thuận bởi Ủy ban nhân dân cấp xã cho các hoạt động tôn giáo. Không đi sâu vào chi tiết của các quy định này, Báo cáo viên đặc biệt muốn nêu ra hai điểm cần lưu ý, đặc biệt quan trọng liên quan đến tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.
30/. Điểm thứ nhất liên quan đến bản chất của sự đăng ký và chúng ta cần xét lại xem đó là một sự đề nghị hay một đòi hỏi chính thức. Báo cáo viên đặc biệt nhận được quan điểm khác nhau về điều này, và có vẻ đây là một sự thiếu rõ ràng. Trong khi một số đại diện của Chính phủ đã nói rõ ràng rằng nếu không đăng ký hợp pháp với chính quyền, các cộng  đồng tôn giáo, tín ngưỡng sẽ không được phép hoạt động; những người khác thì cho rằng các cá nhân của các giáo phái không cần được "cho phép" để thực hành một số nghi thức tôn giáo cơ bản, chẳng hạn như tổ chức các cuộc tụ họp tôn giáo tại nhà riêng, miễn là nhà chức trách được thông báo trước về các hoạt động đó. Ngay cả khi chúng ta chấp nhận sự giải thích sau, mục tiêu của quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng vẫn còn bị hạn chế rất nhiều và không an toàn. Hơn nữa, khái niệm về sự "cho phép" không được rõ ràng. Sự "cho phép" đó vẫn còn quá tụt hậu so với quyền hợp pháp mà các cộng đồng có thể làm căn cứ cho quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của các thành viên.
.....................

(6)/ điều 16 (1) của Pháp Lệnh 21
A/HRC/28/66/Add.2

TRANG 08
31/.  Trong bối cảnh này, thuật ngữ "công nhận", thường được đề cập đến trong các cuộc đối thoại, xứng đáng được có một lời diễn giải ngắn gọn. Việc thực thi quyền con người liên quan đến tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của các cá nhân và/hoặc trong cộng đồng với những người khác, không thể phụ thuộc vào bất kỳ một quyết định nào về phương diện hành chính của chính quyền như: công nhận, cho phép hay phê chuẩn. Là một quyền phổ quát, tự do tôn giáo hay tín ngưỡng hiện hữu trong tất cả con người, và tồn tại trước khi có bất cứ quyết định về hành chính và thủ tục nào đó. Lời mở đầu của bản Tuyên Ngôn năm 1948 về Nhân Quyền bắt đầu với câu:"công nhận phẩm giá vốn có và những quyền bình đẳng và bất khả xâm phạm của tất cả các thành viên của đại gia đình nhân loại". Chữ "công nhận" ở đây nói về nguyên tắc căn bản của sự tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền trong sự giao tiếp giữa người và người. "Công nhận" trong ý nghĩa cơ bản này đã nói lên sự tôn trọng tuyệt đối phẩm giá con người và các quyền con người được đặt trên bất kỳ "công nhận" về phương diện hành chính (7).
32/. Chúng ta cần phải thấy rõ rằng quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của một cá nhân hay một nhóm người không được "tạo ra" bằng bất kỳ thủ tục hành chính nào. Ngược lại, việc đăng ký cần phải phục vụ quyền con người, mà quyền này phải luôn luôn được tôn trọng trước và trên thủ tục đăng ký. Dựa trên cơ sở của sự hiểu biết tổng thể này, đăng ký chỉ có thể là một đề nghị của Nhà nước, và không thể là một đòi hỏi pháp lý có tính cách bắt buộc. Tình trạng của các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng chưa đăng ký được xem như là một phép thử quan trọng về sự hiểu biết về quy tắc thế nào là tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.
33/.  Điểm thứ hai mà Báo cáo viên đặc biệt muốn nêu lên liên quan đến sự hiện hữu về những dạng thái nào khác về tư cách pháp nhân có thể dành cho các cộng đồng đã không đăng ký như là các tổ chức tôn giáo. Với tiêu chuẩn khá cao được đề ra qua điều 16 của Pháp lệnh, điểm quan trọng là các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng có sự lựa chọn khả dĩ một tư cách pháp nhân thay thế nào khác, nếu như họ muốn.
34/.  Dưới phạm trù quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, các quốc gia có trách nhiệm cung cấp một cơ sở hạ tầng pháp lý và thể chế phù hợp tạo điều kiện cho các hoạt động tự do của các cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng mà không chịu gánh nặng quá mức và không bị phân biệt đối xử. Điều này bao gồm sự lựa chọn cho các cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng để có tư cách pháp nhân, mà họ có thể cần để thực hiện các chức năng cộng đồng quan trọng, chẳng hạn như mua bất động sản, sử dụng đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, điều hành tổ chức từ thiện, thành lập cơ sở đào tạo giáo sĩ hay giáo dục thế hệ trẻ. Nếu không có sẵn hoặc có khả năng thực sự để tiếp cận tư cách pháp nhân phù hợp, các hành động này chỉ có thể được thực hiện bởi các cá nhân tự nguyện thực hiện chúng vì lợi ích của cộng đồng. Kết quả là, triển vọng phát triển lâu dài của cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng, đặc biệt trong các nhóm nhỏ, có thể gặp nguy hiểm nghiêm trọng.
35/.  Sau nhiều thảo luận với đại diện Chính phủ về vấn đề đăng ký, Báo cáo viên đặc biệt tin rằng đây là một lĩnh vực cần được quan tâm và đòi hỏi những biện pháp của Lập Pháp và các biện pháp khác.
D/. Vấn đề trong Cơ Chế Khiếu Nại trong hệ thống Pháp Lý
36/.  Điều 30 của Hiến pháp năm 2013 quy định các quyền khiếu nại, tố cáo của mọi người đối với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Thật vậy, việc thực thi hiệu quả các quyền con người, bao gồm cả quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, phần lớn phụ thuộc vào sự hiện hữu của các cơ chế khiếu nại thích hợp. Mọi người phải được quyền dùng đến các cơ chế pháp lý này mà không cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn nặng nề thái quá. Họ phải được quyền thách thức quyết định của nhà chức trách nếu họ cảm thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm. Toà án với tính cách độc lập của họ cần được giao phó nhiệm vụ thẩm định các khiếu nại chiếu theo quy định của luật pháp.
37/.  Báo cáo viên đặc biệt đã không nhận thấy bất cứ vụ nào mà người dân đã thành công trong việc thách thức các hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng hay tôn giáo qua hệ thống tư pháp. Các thành viên của Toà án Nhân dân Tối cao cũng đã không biết đến một vụ thành công nào cả. Báo cáo viên đặc biệt thấy đây là điều rất đáng ngạc nhiên, đặc biệt trong bối cảnh của một số vụ tranh chấp đất đai mà ông được báo cáo. Một trong số
.....................
(7)/ Xin xem Tường Trình của Báo cáo viên đặc biệt LHQ (A/HRC/19/60), bao gồm chủ đề về sự công nhận quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 09
các cuộc xung đột rõ ràng liên quan đến tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, ví dụ, khi đất trước đây được xử dụng làm nghĩa trang tôn giáo hoặc những nơi thờ tự đã bị tịch thu cho mục đích phát triển kinh tế.
38/.  Khi thảo luận về các đề mục liên quan đến cơ chế khiếu nại, tất cả đều được quy về các thủ tục hành chính, có nghĩa là, các kiến nghị phải gửi đến cơ quan hành chính, từ cấp địa phương đến cấp cao hơn của chính quyền.
Tuy nhiên, phương thức này không thể được xem là tương đương với một nền tư pháp độc lập chịu trách nhiệm về việc bảo đảm nhân quyền cho tất cả mọi người, kể cả trong những liên quan đến tình trạng xung đột giữa các cá nhân hoặc các nhóm dân chúng với chính quyền.
39/.  Mặc dù Báo cáo viên đặc biệt nghe nói về một vài trường hợp, trong đó kiến nghị gửi tới các cấp hành chính cao hơn, trong đó có thủ tướng chính phủ, đã giúp giải quyết các tranh chấp; trong nhiều trường hợp khác, người khiếu kiện đã không nhận được bất cứ sự phúc đáp nào từ các cơ quan chức năng. Và nhiều trường hợp khác, cơ quan chức năng cấp cao hơn lại trả lại hồ sơ cho cơ quan ở địa phương để xem xét lại, đã gây ra tình trạng lấp lửng. Nhìn trên khía cạnh pháp luật, tình trạng này chưa được giải quyết thỏa đáng.
 IV/.  Quyền tự trị của các cộng đồng tôn giáo hoặc tín ngưỡng
 A/.  Thái độ tiêu cực đối với các cộng đồng tôn giáo không được công nhận
40/. Đại diện Chính phủ nhiều lần nhấn mạnh rằng, trong khi họ công nhận nhu cầu tinh thần của dân chúng, các tôn giáo phải góp phần củng cố sự đoàn kết của dân tộc như một tổng thể, không chỉ bằng cách phát huy các giá trị xã hội. Kỳ vọng này dường như được thực hiện dựa trên giả định rằng giá trị tôn giáo, giá trị công dân và các giá trị vốn có trong chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có sự trùng nhau. Do đó, các cộng đồng tôn giáo được kỳ vọng đóng một vai trò trong việc giáo dục, giảng dạy và duy trì các giá trị như quy định tại điều 2 của Pháp lệnh 21, trong đó nói rằng "các chức sắc tôn giáo phải có trách nhiệm giáo dục thường xuyên các tín hữu về lòng yêu nước, thi hành các quyền dân sự và nghĩa vụ, và ý thức chấp hành pháp luật ".
41/.  Một số tôn giáo hay giáo phái đã trở thành thành viên của Mặt trận Tổ quốc, một tổ chức quần chúng do Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo. Một trong những tổ chức tôn giáo lớn nhất trong Mặt trận Tổ quốc là Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đây cũng là tổ chức tôn giáo hợp pháp duy nhất đại diện các tăng ni và tín đồ Phật giáo ở Việt Nam và ở nước ngoài. Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam cũng hợp tác với Mặt trận với tư cách là một hiệp hội Công giáo. Ngoài ra còn có các tổ chức tôn giáo khác thuộc Mặt trận Tổ quốc.
42/.  Trong các cuộc thảo luận với Giáo hội Phật giáo Việt Nam tại văn phòng trung ương của hội tại Hà Nội, Báo cáo viên đặc biệt biết được tổ chức này bao gồm chín nhánh của Phật giáo có nguồn gốc từ truyền thống Đại Thừa, chiếm đa số tại Việt Nam, cũng như Tiểu Thừa, Hòa Hảo và những nhánh khác. Bằng cách hợp tác trong tinh thần đoàn kết, các trường phái khác nhau của Phật giáo đã có thể duy trì các đặc tính và bản sắc riêng biệt của họ đến một mức độ nào đó, bao gồm các di sản về ngôn ngữ khác nhau.
43/.  Tuy nhiên, trong khi thừa nhận sự đa dạng trong nội bộ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Báo cáo viên đặc biệt chú ý đến một thái độ khá tiêu cực đối với sự thực hành Phật giáo bên ngoài của tổ chức. Một số chức sắc hoạt động trong tổ chức khẳng định họ chưa bao giờ nghe nói về bất kỳ nhóm Phật giáo độc lập nào tại Việt Nam.
Những người khác ám chỉ đơn thuần "ý kiến riêng" cho rằng các nhóm ấy chỉ là một số cá nhân thúc đẩy bởi tham vọng, có vấn đề về mặt đạo đức mà không xứng đáng được quan tâm đến. Việc xử dụng các cụm từ như "ích kỷ", "tham vọng cá nhân", "tham lam" hay "lợi dụng vật chất" từ các nhà tài trợ nước ngoài, cho những người thực hành Phật giáo hay các tôn giáo khác bên ngoài các tổ chức đăng ký chính thức được nhắc đến thường xuyên trong cuộc đối thoại.
44/.  Trong bối cảnh này, Báo cáo viên đặc biệt hỏi các quan chức rằng liệu có một động cơ tích cực và khả kính nào về sinh hoạt của các cộng đồng tôn giáo độc lập, thì không bao giờ nhận được câu trả lời rõ ràng. Thái độ tiêu cực này đối với cộng đồng tôn giáo độc lập trùng lặp với ý tưởng thường được nêu lên về “lợi ích của số đông” luôn được ưu tiên hơn các quyền và lợi ích của thiểu số hoặc cá nhân bất đồng.
...............
(8)/ Xin xem điều 4, đoạn 1 của Hiến Pháp năm 2013
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 10
45/.  Báo cáo viên đặc biệt muốn nhấn mạnh trong bối cảnh này là tự do tôn giáo hay tín ngưỡng không chỉ là một vấn đề của nhóm thiểu số. Là một quyền con người, nó liên quan đến tất cả mọi người, bất kể họ theo một tôn giáo đa số hoặc thuộc về một cộng đồng thiểu số hoặc không có cộng đồng tôn giáo nào cả. Việc đối xử với các dân tộc thiểu số, tuy nhiên, đáng được chú ý đặc biệt, bởi vì đó là biểu hiện chung -- khoan dung hoặc ít khoan dung -- về môi trường xã hội. Điều này cũng đúng đối với các cá nhân thuộc các tôn giáo có ý kiến bất đồng, đó là các cá nhân có lập trường không phù hợp với các cộng đồng dòng chính và các tổ chức chính thức của chúng. Chừng nào các cộng đồng thiểu số được hoạt động tự do và độc lập và chừng nào những lập trường bất đồng được phát biểu không sợ hãi, thì các thành viên của các tổ chức đa số cũng sẽ có thêm không gian để thực hành tôn giáo theo cách thức phù họp với họ.
46/.  Hơn nữa, tôn trọng quan điểm của cá nhân, bao gồm cả quan điểm bất đồng chính kiến, tạo điều kiện cho dòng chảy tự do của ý tưởng trong xã hội nói chung, và cũng làm phong phú thêm sự tương tác giữa con người với các thành phần chiếm đa số. Tuy nhiên, Báo cáo viên đặc biệt nhận thấy rằng, trong một số cuộc thảo luận, "lợi ích của đa số" được đưa ra nhằm bác bỏ những ý kiến của các nhóm thiểu số hoặc của các cá nhân bất đồng chính kiến và cho rằng các ý kiến này là không thích hợp, hoặc thậm chí coi họ là những người có vấn đề về đạo đức. Trường hợp tương tự cũng xảy ra trong các cuộc thảo luận liên quan đến các cộng đồng tôn giáo độc lập, chẳng hạn như Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một số nhóm Phật giáo dân tộc thiểu số (một số người trong thành phần này tự nhận mình là Phật tử "Khmer Krom"), các nhóm độc lập của Hòa Hảo, Cao Đài, Tin Lành, Dương Văn Mình và Pháp Luân Công.
47/.  Trong cuộc họp với các đại diện của cộng đồng Phật giáo độc lập, Báo cáo viên đặc biệt nghe khiếu nại về việc liên tục bị đàn áp nặng nề, trong đó chính quyền ngăn cản các cá nhân trong việc thực hiện quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng ngay cả ở mức độ thấp nhất. Thái độ không công nhận việc thực hành tôn giáo không đăng ký mà ông nhận thấy trong nhiều cuộc hội thoại, cho thấy rằng các cộng đồng Phật giáo độc lập hiện nay không thể thực hiện quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của họ. Hơn nữa, một số tu sĩ Phật giáo, nhận mình là người Khmer Krom, đã bày tỏ sự mong muốn của họ được độc lập nhiều hơn, không chỉ trong phạm vi Giáo hội Phật giáo Việt Nam mà còn ở bên ngoài tổ chức Phật giáo chính thức này của nhà nước. Tình hình của cộng đồng độc lập của Phật giáo Hòa Hảo cũng gặp các khó khăn tương tự.
48/.  Một tôn giáo hầu như không được biết đến bên ngoài Việt Nam là Cao Đài, là sự kết hợp truyền thống của Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo và Thiên Chúa giáo với một số giáo lý mới. Như trong trường hợp của Phật giáo, các tín đồ Cao Đài được chia thành hai nhóm: những người đặt dưới sự lãnh đạo của Hội đồng Chưởng quản Cao Đài do chính phủ thành lập, và những người muốn thực hành tôn giáo độc lập. Các mối quan hệ giữa hai nhóm này có vẻ căng thẳng. Trong khi đó, các tổ chức Cao Đài được công nhận chính thức buộc tội nhóm bất đồng chính kiến về "ý định ly khai" và tạo ra "tình trạng rối" trong dân chúng; trong khi các tín đồ Cao Đài độc lập thấy truyền thống tốt đẹp của họ bị hủy hoại bởi sự can thiệp của Chính phủ. Họ khẳng định rằng sự can thiệp này đã dẫn tới nhiều thay đổi áp đặt trong đạo Cao Đài.
49/.  Trong khi Báo cáo viên đặc biệt không phải ở vị thế để đánh giá chi tiết về các điểm thần học của sự xung đột này, ông kỳ vọng Chính phủ đảm bảo sự hoạt động tự do của các cộng đồng Cao Đài độc lập và tạo điều kiện giúp họ phát triển một cách thuận lợi phù hợp với ý muốn của họ. Tình hình hiện nay của các nhóm Cao Đài độc lập chắc chắn là không phù hợp với quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, vì cộng đồng của họ không còn các cơ sở thích hợp cho việc thờ phượng và giảng dạy; và đồng thời họ bị áp lực để tham gia các tổ chức chính thức.
 B/.  Giáo dục và huấn luyện tôn giáo
50/. Điều 19 và Điều 20 của Luật Giáo dục năm 2005 nghiêm cấm việc rao giảng tôn giáo trong các trường học và cơ sở giáo dục khác ở Việt Nam. Luật vẫn khuyến khích những "phong tục tốt đẹp" của các tín ngưỡng và lễ hội khác nhau nhưng lại cảnh báo chống lại "mê tín" hoặc những niềm tin và hoạt động nào bị xem là hủ tục.
51/. Trong khi đó, số lượng các cơ sở đào tạo giáo sĩ thuộc các tôn giáo khác nhau đã tăng lên đáng kể trong những thập niên gần đây. Theo thông tin của Chính phủ, có 46 cơ sở huấn luyện về tôn giáo trong nước. Trong khi
...................
(9)/ xem TườngTrình của Báo cáo viên (A/HRC/22/51), gồm chủ đề về quyền tự do tôn giáo của nhóm thiểu số.
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 11
các cộng đồng tôn giáo quyết định các phần chính của chương trình huấn luyện, chẳng hạn như việc giảng dạy các học thuyết thần học, cách áp dụng các học thuyết này vào thực tế, việc thưc hành các nghi lễ, cũng như lịch sử của cộng đồng thì theo Điều 14 và 15 của Nghị định 92, chương trình huấn luyện cũng bao gồm các môn học bắt buộc về lịch sử và pháp luật của Việt Nam do Bộ Giáo dục và Huấn luyện cung cấp và giám sát. Báo cáo viên đặc biệt cũng nhận thấy rằng chủ nghĩa Mác-Lênin là một phần của chương trình giảng dạy bắt buộc.
52/. Ngoài các cơ sở huấn luyện, ở Việt Nam không có các trường học của các tôn giáo hay giáo phái. Tuy nhiên, Giáo Hội Công Giáo có mở một số nhà trẻ và các nhà trẻ này thường có liên quan đến một nhà Dòng nào đó.
Các nhà trẻ này nhận trẻ em từ nhiều tôn giáo khác nhau ngoài Công giáo. Một số tổ chức tôn giáo đã bày tỏ mong muốn thành lập các trường đào tạo cho các trình độ cao hơn, điều mà hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn và cần phải thương lượng trong một thời gian dài với Chính phủ.
 C/.  Bổ nhiệm các chức sắc tôn giáo
53/. Theo Chính phủ, các cộng đồng tôn giáo có thể bổ nhiệm và phong chức cho các giáo sĩ theo các quy định và luật nội bộ của tôn giáo của mình. Theo báo cáo, việc bổ nhiệm của họ không cần sự chấp thuận của các cơ quan chức năng nói chung. Tuy nhiên, các cộng đồng được yêu cầu phải “đăng ký” các giáo sĩ được phong chức và thông báo cho các cơ quan chức năng.  Điều 22 của Pháp lệnh 21 đòi hỏi rằng những người được bổ nhiệm phải là công dân Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, tinh thần đoàn kết dân tộc và hòa hợp hòa giải.
Những yêu cầu mơ hồ như vậy dường như quá quắt; và vai trò của Nhà nước không phải là để can thiệp vào công việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo. Về việc bãi nhiệm một chức sắc tôn giáo vốn ít khi xảy ra thì thường do các cộng đồng tôn giáo quyết định, phù hợp với luật lệ tôn giáo của họ. Tuy nhiên, Báo cáo viên đặc biệt cũng đã xem qua cáo buộc về sự can thiệp của Chính phủ trong một số trường hợp các nhà sư bị buộc phải hoàn tục. Mặc dù ông không thiết lập được các chi tiết cần thiết cho một sự đánh giá rõ ràng về từng trường hợp, ông vẫn tin rằng nếu sự chọn lựa của cộng đồng tôn giáo bị hạn chế quá mức thì chắc chắn sẽ dẫn đến nguy cơ cấu trúc của sự tự trị bị phá vỡ, có nghĩa là việc bổ nhiệm hoặc trục xuất trong thực tế sẽ bị ảnh hưởng trầm trọng bởi các quyền lợi của Chính phủ. Tuy nhiên, điều 6 (g) của Tuyên Ngôn của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc năm 1981 về việc xóa bỏ mọi hình thức không khoan dung và phân biệt đối xử dựa trên tôn giáo hoặc tín ngưỡng đã bảo đảm một cách rõ ràng rằng quyền tự do "huấn luyện, bổ nhiệm, đề cử hoặc chỉ định những người thích hợp để thừa kế chức vị lãnh đạo đều phải dựa trên yêu cầu và tiêu chuẩn của bất luận tôn giáo hoặc tín ngưỡng nào."
54/. Tình trạng của Giáo Hội Công Giáo cho thấy một số đặc điểm vì việc phong chức giám mục được thực hiện bởi Tòa Thánh, vốn là một "hệ thống quyền lực ngoại quốc" có trụ sở bên ngoài Việt Nam. Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam tự xem mình là một phần của giáo hội hoàn vũ. Dù vậy, việc bổ nhiệm và phong chức giám mục đã gây ra một số tranh cãi. Mặc dù Việt Nam và Tòa Thánh vẫn chưa thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức, mối quan hệ của họ đã được cải thiện nhiều trong những năm gần đây, và những phái đoàn cao cấp đã nhiều lần tiếp xúc với nhau, trong đó có một cuộc gặp gỡ giữa Đức Giáo Hoàng và Thủ tướng Chính phủ vào tháng 10 năm 2014. Trong khi chính phủ tiếp tục khẳng định quyền phủ quyết của họ trong việc phong chức giám mục, theo như được báo cáo thì các giải pháp thực dụng có thể được thương lượng.
 D/.  Các vấn đề về bất động sản và đất đai
55/. Trong chuyến viếng thăm này, nhiều vấn đề về bất động sản đã gây sự chú ý của Báo cáo viên đặc biệt. Các vấn đề này được đưa ra không chỉ bởi những thành viên của các cộng đồng không được công nhận, mà còn bởi đại diện của các cộng đồng được chính thức công nhận và các thành viên của Mặt trận Tổ quốc. Trong số các khiếu nại, có nhiều khiếu nại liên quan đến bất động sản và/hoặc đất đai. Vì lợi ích của sự phát triển kinh tế và các dự án hiện đại hóa khác của quốc gia, một số các cộng đồng tôn giáo đã bị mất hoặc có nguy cơ mất phần
...................
(10)/ Nghị quyết 36/55 của Đại Hội Đồng LHQ
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 12
lớn đất đai của họ, cùng với những nơi thờ tự có giá trị lịch sử (11). Báo cáo viên đặc biệt đã nghe nhiều yêu cầu từ các cộng đồng tôn giáo bao gồm cả một số cộng đồng đã được nhà nước công nhận, họ muốn lấy lại tài sản và đất đai để được hoạt động một cách vẹn toàn.
56/. Việc tranh chấp tài sản đòi hỏi phải có thông tin chính xác về các chi tiết phức tạp. Do đó Báo cáo viên đặc biệt tự giới hạn trong một vài nhận xét chung. Sở hữu bất động sản và đất đai là một trong những điều kiện tiên quyết cho sinh hoạt của cộng đồng tôn giáo. Quyền sở hữu được thiết lập một cách rõ ràng là một yếu tố quan trọng để xác định rằng các cộng đồng tôn giáo có được tự trị hay không. Tại Việt Nam, tất cả đất đai được quản lý bởi nhà nước và không ai có thể sở hữu đất đai. Sự kiện này tạo thêm một yếu tố bất ổn về mặt pháp lý cho các cộng đồng tôn giáo kể cả các cộng đồng đã đăng ký chính thức vì nhà nước có thể lấy lại đất đai bất cứ lúc nào. Ngoài ra, một số cộng đồng ví dụ như cộng đồng người Chăm, vốn kết hợp Ấn Độ giáo và Hồi giáo, có một gắn bó văn hóa hay tôn giáo mạnh mẽ với từng miếng đất cụ thể nào đó, ví dụ như những nơi chôn cất tổ tiên của họ.
57/. Đại diện Chính phủ công khai thừa nhận rằng có tranh chấp đất đai tại Việt Nam cũng như ở nhiều nước khác.
Đồng thời, họ nghi vấn rằng liệu những tranh chấp này có thể nào ảnh hưởng đến tự do tôn giáo tín ngưỡng hay không. Tuy nhiên, ít nhất là trong một số trường hợp, các nhu cầu tôn giáo rõ ràng đóng một vai trò quan trọng trong vấn đề tranh chấp đất đai. Ví dụ như đại diện của các nhóm Tin Lành nói về các trường hợp ở vùng nông thôn trong đó các Hội Thánh Tin lành khác nhau đã bị sáp nhập vào một Hội Thánh duy nhất để việc "quản lý được dễ dàng hơn". Được biết việc sát nhập này không phải luôn luôn được tiến hành với sự tôn trọng những đặc tính riêng biệt của các giáo phái Tin Lành khác nhau và nhu cầu tôn giáo của các tín đồ thuộc từng địa phương khác nhau. Lợi điểm trong việc điều hành và lợi lộc dùng đất đai vào các mục đích kinh tế thường lấn áp quyền tự do tôn giáo của người dân.
58/. Các tranh chấp về đất đai luôn luôn cần được giải quyết một cách tế nhị hầu đưa ra các giải pháp có thể chấp nhận được cho tất cả các bên liên hệ. Chính phủ nhấn mạnh rằng đất đai họ cung cấp cho các cộng đồng tôn giáo xử dụng được miễn thuế. Tuy nhiên, việc thiếu các biện pháp pháp lý hữu hiệu như đã đề cập ở trên, đặc biệt trong phạm vi tư pháp, cũng ảnh hưởng đến tình trạng tranh chấp đất đai liên quan đến các cộng đồng tôn giáo. Trong những buổi nói chuyện với đại diện các cộng đồng tôn giáo khác nhau, bao gồm cả các cộng đồng có hợp tác với Chính phủ trong Mặt trận Tổ quốc, Báo cáo viên đặc biệt chú ý đến tâm lý mất tin tưởng cao độ về các thủ tục pháp lý kém hiệu quả. Kết quả là một số các cộng đồng tôn giáo cảm thấy họ hoàn toàn nằm trong tay của chính quyền địa phương.
 V/.  Thực hành tôn giáo trong một số hoàn cảnh đặt biệt
 A/.  Đối với tù nhân
59/. Như đã nói ở trên, Điều 24 của Hiến pháp 2013 đề cập tất cả mọi con người chứ không chỉ nói đến công dân mà thôi. Điều này bao gồm rằng cả các tù nhân, thậm chí ngay cả khi họ tạm thời bị mất trọn vẹn quyền công dân, vẫn có quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng vốn là quyền phổ quát của con người. Khi thảo luận về vấn đề này, Báo cáo viên đặc biệt đã nhận được thông tin mâu thuẫn. Các cơ quan Chính phủ thường nhấn mạnh rằng tù nhân có thể thực hành tôn giáo của họ trong phạm vi giam cầm của nhà tù nếu việc thực hành này không ảnh hưởng tiêu cực đến các tù nhân khác và những hoạt động nói chung của đời sống nhà tù.
60/. Ngược lại, một số người đã biết và có kinh nghiệm sống trong tù lại cáo buộc rằng các nhà tù hầu như không cho phép hoạt động tôn giáo và cấm cả việc tiếp nhận và sở hữu các sách hoặc tài liệu tôn giáo. Khi được hỏi về vấn đề này, một đại diện cao cấp của Ủy ban Tôn giáo Chính phủ nói với Báo cáo viên đặc biệt là quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của tù nhân cần được tôn trọng trong khi thừa nhận rằng cho đến nay Ủy ban chưa đưa
.....................
(11)/ Thí Dụ: Vào năm 2007 chính quyền Đà Nẵng công bố việc lấy đất của làng Cồn Dầu. Việc bồi thường rất thấp, và giáo dân Cồn Dầu muốn được định cư gần nhà thờ bị khước từ hai lần. Đến năm 2013, hàng trăm dân cư đã dọn ra trước sự đe doạ của chính quyền hay sau khi nhà của họ đã bị giật sập. Sự việc này là một mối quan tâm vì đã làm gián đoạn các sinh hoạt văn hoá và tôn giáo của người dân (xem A/HRC/27/72. Vụ VNM 3/2014). Xin xem vụ việc xẩy ra tại Chùa Liên Trì (A/HCR/28/85, vụ VNM 11/2014).
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 13
ra bất kỳ hướng dẫn nào cho các Ban quản lý trại tù nhằm bảo đảm quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của tù nhân được bảo vệ một cách hữu hiệu.
61/. Ở Việt Nam không hề có hệ thống các tuyên úy nhà tù gồm giáo sĩ của các tôn giáo khác nhau phục vụ cho nhu cầu tinh thần của tù nhân theo yêu cầu của họ. Tuy nhiên, đại diện Tăng Đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã giải thích rằng họ có thể phục vụ trong các nhà tù, bao gồm các bài giảng để xây dựng các ý thức về xã hội và đạo đức cho tù nhân. Dường như các linh mục Công giáo cũng thỉnh thoảng phục vụ nhu cầu tôn giáo cho tù nhân. Các mục sư Tin Lành mà Báo cáo viên đặc biệt đã thảo luận về vấn đề này cho biết là họ không thấy bất kỳ sự hỗ trợ tinh thần nào dành cho tù nhân Tin Lành.
 B/.  Đối với quân nhân
62/. Quân đội Việt Nam không hề có một hệ thống tuyên úy quân đội thường xuyên phục vụ cho các nhu cầu tôn giáo hay tâm linh của những người lính. Tuy nhiên, tương tự như tình hình trong các nhà tù, Tăng Đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam dường như đã gia tăng sự phục vụ cho các quân nhân. Báo cáo viên đặc biệt được cho biết rằng các nhà sư thuộc Tăng Đoàn Phật giáo đã từng cầu nguyện cho những người lính phục vụ đất nước trong những điều kiện phức tạp. Họ cũng dạy các kỹ thuật Thiền để giúp những chiến binh chấp nhận dễ dàng hơn nhiệm vụ cũng như điều kiện sinh sống khó khăn.
63/. Ở Việt Nam người dân không có quyền từ chối nghĩa vụ quân sự và cũng không cho phép sự chọn lựa phục vụ dân sự dành cho những quân nhân phản đối việc cầm súng vì lý do lương tâm hay tôn giáo. Điều này đi ngược lại các quyền tự do tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo hay tín ngưỡng quy định bởi Điều 18, khoản 3 của Công ước Quốc tế, chống lại việc bị buộc phải hành động trái với tín ngưỡng tôn giáo hay đạo đức (12).
 VI/.  Báo cáo về vi phạm tự do tôn giáo, tín ngưỡng
64/. Báo cáo viên đặc biệt đã nhận được những cáo buộc nghiêm trọng liên quan đến các vi phạm quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam. Các vụ vi phạm được tường trình thường do chính quyền địa phương ở cấp huyện, xã và cấp tỉnh gây ra, và do công an, bao gồm các công an thuộc đơn vị 41/PA 38 vốn được giao nhiệm vụ giám sát các vấn đề xã hội và "để phát hiện những người vi phạm tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng" gây ra. Một số cuộc tấn công có tính cách bạo lực nhằm vào những người vô tội và không có vũ khí, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em.
65/. Các vị Lãnh đạo tinh thần của Phật Giáo, các sư và tăng ni của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN) đã bị theo dõi, bị gọi lên “làm việc” với công an (thẩm vấn), bắt bớ và giam giữ tuỳ tiện, quản thúc tại nhà và bỏ tù dài hạn (13). Các Phật tử bị cấm vào các chùa của Giáo hội, họ buộc phải ký vào một bản cam kết là họ sẽ không tham gia Giáo hội; nếu không, họ có thể bị đuổi việc. Ngoài ra, các cơ quan chức năng đã tuyên truyền chống lại Giáo hội. Các cơ sở giáo dục, y tế và nơi thờ phượng trực thuộc các cộng đồng tôn giáo này đã bị chính quyền tịch thu.
66/. Các cộng đồng tôn giáo độc lập của Phật giáo Hòa Hảo luôn dùng hình thức phản đối ôn hòa, như tuyệt thực, đã bị trừng phạt nghiêm khắc, kể cả việc họ bị giam giữ nhiều lần hoặc lãnh án tù dài hạn (14). Công an và côn đồ được thuê mướn đã không ngần ngại dùng vũ lực thật mạnh bạo trong khi bắt giữ hoặc tấn công các cộng đồng này vì họ tổ chức các cuộc tụ họp để cầu nguyện tại những địa điểm được xây dựng để dùng cho nhu cầu lễ lạy mà chính quyền gọi đó là những “ngôi tháp bất hợp pháp”.
.............................
(12)/ Xin xem A/HRC/7/10/Add.2, đoạn 46 và A/HRC/10/8/Add.4, đoạn 51
(13)/ Vào đầu tháng Giêng 2014, thành viên của Ban Điều Hành GHPGVNTN đã bị công an sách nhiễu và bị quản thúc tại Chùa. Công an đã ngăn cấm không cho Ban Điều Hành mới  được tổ chức Lễ Kỷ Niệm vào ngày 10-01-2014, đồng thời ngăn chặn các phật tử đến dự lễ. Nhiều vị lãnh đạo Gia Đình Phật Tử bị đe doạ và bị quản thúc tại nhà (xem A/HRC/26/21, vụ VNM 2/2014)
(14)/ Xem một thí dụ tại A/HRC/28/85, vụ VNM 10/2014
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 14
67/. Một số người thuộc Phật giáo "Khmer Krom" đã phải đối diện với những khó khăn tương tự trong việc xin phép tổ chức cầu nguyện, tang lễ hoặc trùng tu những ngôi đền/chùa của họ, mặc dù họ đã được công nhận bởi Tăng Đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Theo báo cáo, họ đã bị phân biệt đối xử một cách có hệ thống và nhiều người trong nhóm họ đã không được phép học hoặc giảng dạy bằng ngôn ngữ dân tộc của họ. Sinh hoạt tôn giáo của họ bị kiểm soát chặt chẽ trên mọi phương diện, và các nhà sư có nguy cơ bị ép hoàn tục nếu chính quyền biết được là họ đã tiếp xúc với nước ngoài.
68/. Không có một sinh hoạt tôn giáo nào của Đạo Cao Đài độc lập được nhà nước cho phép vì chính Đạo Cao Đài bị coi là bất hợp pháp. Các tín đồ của Cao Đài gặp khó khăn ngay cả khi họ sinh hoạt tôn giáo tại nhà mình.
Cũng giống như các cộng đồng độc lập khác, họ đã bị ép buộc, bị sách nhiễu và bị tấn công. Các nghi lễ của họ kể cả việc cử hành tang lễ thường bị theo dõi và bị ngăn cản. Hơn nữa, họ luôn lo sợ mất việc làm và bị phân biệt đối xử trong các thủ tục hành chính. Một số con cái của họ cũng đã phải đối diện với sự khó khăn ở trường.
69/. Báo cáo viên đặc biệt cũng đã nghe nói về cuộc đàn áp khắc nghiệt đối với những tín đồ của các nhà thờ phái “Montagnard” (thiểu số Tây Nguyên), như là dân tộc thiểu số Êđê. Hàng trăm nhà thờ của dân tộc thiểu số trong khu vực Tây Nguyên đã bị buộc phải đóng cửa và mục sư của họ bị bắt và tống giam. Hàng ngàn người buộc phải bỏ trốn ra khỏi nước hoặc lẩn trốn sau các cuộc biểu tình đòi quyền đất đai và tự do tôn giáo. Những người bỏ chạy sang các nước láng giềng phải đối mặt với nhiều trở ngại, và cuộc sống của họ tiếp tục bị đe doạ. Theo một báo cáo, vào năm 2000, Chính phủ đã ban hành các văn bản hướng dẫn các viên chức địa phương ngăn chặn sự phát triển của đạo Tin Lành.
70/. Theo thông tin nhận được, mặc dù một số người Tin Lành Hmong đã được phép đăng ký với Chính phủ để tiến hành các sinh hoạt tôn giáo, họ vẫn tiếp tục bị sách nhiễu và vu khống. Các cơ quan chức năng bị cáo buộc đã tìm cớ để bắt giữ họ, đánh họ tàn nhẫn trong trại giam và buộc họ phải từ bỏ đạo. Thậm chí đã có một trường hợp được báo cáo là chết trong trại giam của Công an. Trong một số làng, quy tắc đã được đề ra để trừng phạt những người cải đạo qua việc họ bị trục xuất khỏi làng nơi đang cư ngụ. Họ cũng không được phép sở hữu kinh thánh in bằng ngôn ngữ Hmong hay xử dụng ngôn ngữ địa phương để cử hành các sinh hoạt tôn giáo.
71/. Những người Hmong thuộc đức tin Dương Văn Minh cũng đã bị bắt giữ tùy tiện và bỏ tù, đánh đập, tra tấn, giám sát liên tục, và ép từ bỏ đức tin của họ. Những ai không chịu từ bỏ đức tin thì phải đối mặt với sự mất việc làm và mất cả những phúc lợi xã hội dành cho dân tộc thiểu số. Theo báo cáo, 24 nhà chứa đồ vật tang lễ của họ đã bị phá hủy vì bị cho là "không chân chính", có nghĩa là không có giấy phép. Sự phá hủy này bao gồm cả sự tàn phá gần đây nhất vào tháng 10 năm 2014, sau chuyến thăm của Báo cáo viên đặc biệt. Chính phủ cũng đã bị cáo buộc là thực hiện tuyên truyền chống lại cộng đồng này qua các phương tiện truyền thông và công báo nội bộ của Chính phủ.
72/. Các cộng đồng người Chăm đang đối mặt với nguy cơ mất đất đai, đặc biệt là các nghĩa trang thiêng liêng chôn cất tổ tiên của họ đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các dự án phát triển mới, trong đó có công trình xây dựng đường xá, đã không tham khảo ý kiến của các cộng đồng người Chăm hoặc tôn trọng nhu cầu này của cộng đồng trong việc di dời các ngôi mộ phải được cử hành với các nghi lễ truyền thống thích hợp.
Theo báo cáo, do việc phản kháng của cộng đồng trong việc di dời nghĩa trang, tất cả các nhà thờ Hồi giáo bị đóng cửa trong tháng Ramadan và chỉ được mở cửa trở lại nếu họ đồng ý với kế hoạch di dời nghĩa trang. Việc một số đền tháp của người Chăm bị biến thành các địa điểm du lịch bị cộng đồng người Chăm xem là hoàn toàn không thích hợp vì những nơi thờ cúng linh thiêng đó bị đóng cửa, không sinh hoạt được. Họ cũng đã thất bại trong việc đăng ký cộng đồng của mình sau nhiều lần xin.
73/. Báo cáo viên đặc biệt nghe nhiều vụ bắt giữ tùy tiện, hoặc quản thúc tại gia, và tạm giam nhiều lần, gồm có những án tù dài hạn và quá nặng nề đối với những cá nhân thuộc nhiều tôn giáo hay tín ngưỡng khác nhau chỉ vì họ vận động cho tự do tôn giáo hoặc tham gia vào các hoạt động tôn giáo của họ. Thường họ bị buộc tội theo Điều 258 của Bộ luật hình sự với lý do là "xúc phạm nền dân chủ", "tham gia một phong trào ly khai" hay "xuyên tạc tình hình và chỉ trích Chính phủ", chỉ vì họ thực thi quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, tự do phát biểu và diễn đạt quan điểm, và tự do hội họp và lập hội một cách ôn hòa. Báo cáo viên đặc biệt đã gặp Linh
A/HRC/28/66/Add.2

(Còn tiếp trang 15.)

50 năm sự kiện Huế-Mậu Thân: Ai chịu trách nhiệm?

FB Mạnh Kim. 2-1-2018.
(Tt BNS số 03).
Trong cuộc phỏng vấn ngày 20-5-2017 (*), Nguyễn Đắc Xuân kể: “Họ lập ra một cái đoàn, gọi là “Đoàn sinh viên quyết tử”, mà tôi là trưởng cái đoàn đó… Tôi tổ chức học quân sự, thành ra ba đại đội, làm thành một tiểu đoàn… Thì trong cái đội đó, cái đoàn sinh viên quyết tử đó, chả bắn được ai, mà cũng chả làm cái gì ai, nhưng nó gây ra một cái tinh thần sinh viên, mà dám vũ trang để mà chống Mỹ, để mà chống Thiệu-Kỳ…”.
Dù không biết “Đoàn sinh viên quyết tử” của Nguyễn Đắc Xuân có “bắn được ai” hoặc “làm gì ai” không, nhưng có điều chắc chắn rằng chiến dịch Mậu Thân là một kịch bản được chuẩn bị chu đáo với những kế hoạch cụ thể và phân công cá nhân cụ thể. Những bài báo miêu tả chi tiết “chiến công Mậu Thân” đã thuật rõ điều này. Việc tiêu diệt cho bằng hết “ngụy quân, ngụy quyền” để “xây dựng” một chính quyền mới sau “giải phóng” là một “chủ trương” của Ba Đình. Như được Lê Duẩn phác thảo, Mậu Thân không chỉ là chiến dịch quân sự. Mục tiêu lớn nhất là cướp chính quyền. Điều đó đã dẫn đến chiến dịch khủng bố và cuối cùng đưa đến cuộc thảm sát. Giết ai và ai đi giết đã nằm trong kế hoạch được soạn từ nhiều tuần hoặc nhiều tháng trước khi chiến dịch nổ ra. Việc Huế bỗng đốt pháo nhiều hơn để người dân không phân biệt được tiếng súng với tiếng pháo đã cho thấy kế hoạch được lên chi tiết như thế nào.

Ảnh: Tạp chí LIFE
Trong “Hue 1968: A Turning Point of the American War in Vietnam” (ấn hành 2017), tác giả Mark Bowden đã ghi lại một phần trong danh sách 22 trang đánh máy (mà ông tìm được trong Kho lưu trữ quốc gia Hoa Kỳ), liệt kê các mục tiêu cần “tiêu diệt”:
– Nhà thờ Phú Cam
– Khoa Luật Đại học Huế
– “Xa”, một cảnh sát Quảng Trị sống ở đường Thống Nhất gần giao lộ chữ Y cách đường Lê Văn Duyệt vài căn
– “Soi”, trung sĩ nhất Sư đoàn 1 Bộ binh ngụy, ở đường Thống Nhất, gần căn nhà bằng đá và tiệm may
– Cao Thọ Xá, ác ôn, dân Phú Ổ, làng Hương Chu, thị trấn Hương Trà. Bỏ làng, về sống ở đường Thống Nhất gần cửa Chánh Tây. Đêm đêm, bọn chính quyền từ các làng kế bên về nhà hắn đánh bài và ngủ lại
– Tiệm sửa đồng hồ đường Thống Nhất, đối diện xéo Phòng tuyển quân. Bọn chính quyền từ các làng kế bên tụ tập về đây ngủ
– Hồ Thị Kim Loan, làm cho Cơ quan Phát triển Nông thôn. Nhà ở đường Trịnh Minh Thế gần trạm xe bus Nguyễn Hoàng
– Nhà hàng Lạc Thành ở đường Đinh Bộ Lĩnh, bên ngoài cửa Thượng Tứ. Bọn mật vụ và cảnh sát thường đến đây ăn uống
– Tiệm sửa radio ở số 3 đường Trần Hưng Đạo. Chủ là Tôn Thất Vũ, con của Tôn Thất Kế, đảng viên Đại Việt…
Cầm danh sách trong tay, những “anh hùng ngã tắt”, như cách nói của ông Phan Nhật Nam, đã tổ chức các cuộc lùng sục gieo rắc kinh hoàng. Những kẻ “hối hả hưởng cho hết cái uy quyền què cụt trong giây lát” không chỉ là những thanh niên “sớm giác ngộ” hoặc Việt Cộng nằm vùng. Có cả dân giang hồ. Một trong những người như vậy là Mai Văn Ngụ, ở Thới Lai, vốn khét tiếng với “nghề” ăn cướp; tống tiền; đâm thuê chém mướn. Từng xộ khám nên Ngụ hận thù cảnh sát. Khi “giải phóng về”, Ngụ “lột xác”, đổi tên thành Mai Văn Hòa. Được “cách mạng tin tưởng” giao nhiệm vụ, Ngụ hăm hở lập thành tích truy tìm những kẻ “có nợ máu với nhân dân”, nhân tiện “xử” luôn những kẻ thù của mình, trong chính quyền lẫn giới giang hồ. Trong vài vụ, đích thân Ngụ đứng xem cuộc hành quyết ngay trước nhà nạn nhân… (sau sự kiện Mậu Thân, Ngụ trốn theo “quân giải phóng” nhưng sau đó bị bắt và bị đày Côn Đảo; sau 1975, đương sự trở về Huế và được xem như một “anh hùng cách mạng” – dẫn từ “Hue 1968”, Mark Bowden).
Vì “chỉ đạo ở trên” là tiêu diệt sạch chính quyền “cũ” để “giải phóng hoàn toàn” Huế nên đã xảy ra các vụ bắt bớ tràn lan và giết chóc vô tội vạ. Cứ là “thành phần ngụy quyền” thì bắt hoặc giết, bất luận có “ác ôn” hay không. Trường hợp gia đình bà Nguyễn Công Minh là một ví dụ. Bà kể, lúc 2g sáng sau Giao thừa, một nhóm Việt Cộng cầm AK đến gõ cửa. Bố bà sợ hãi kêu anh cùng chú của bà lẻn cửa sau đi trốn. Việt Cộng đòi xem căn cước và hỏi bố bà làm gì. Ông là phó quận trưởng quận Triệu Phong ở Quảng Trị, sắp nghỉ hưu. Sáng mùng một, họ quay lại, dẫn ông đi “thẩm cung”. Sáng mùng hai, họ lại đưa ông đến Trường tiểu học Vỹ Dạ để tra hỏi. Đến mùng ba, họ yêu cầu ông gói ghém đồ dùng cá nhân và đi “học tập cải tạo 10 ngày”. Ông mất biệt từ đó.
Một năm sau, một Việt Cộng chiêu hồi khai với tỉnh trưởng Thừa Thiên rằng ông ta tận mắt chứng kiến một cuộc thảm sát, tất cả đều bị chôn sống, và ông biết chính xác hố chôn. Đến Xuân Ổ, người ta tìm thấy một hầm có 7 xác, tất cả đều bị trói và đều bể sọ. Việc tìm kiếm được mở rộng sang các vùng lân cận. Mùa hè khô hanh chỉ toàn cát phủ nhưng cứ chỗ nào có cỏ tươi thì nơi ấy có xác. Lên Phú Tứ, sau một tháng, tìm được thêm 250 xác. Hầu hết đều bị bể đầu, trói cánh khuỷu, với tư thế quỳ và chết chụm vào nhau. Gia đình bà Minh vẫn cố gắng tìm xác người thân. Tìm cho đến tháng 9-1979… Bố bà Minh bị bắt đi đâu và bị giết ở đâu? Không ai biết.
Ai trực tiếp “chỉ đạo” và “duyệt” các kế hoạch “giải phóng” Huế? Ai lên danh sách “tìm diệt” và tổ chức “tìm diệt”? Phải có một hoặc nhiều người nào đó. Và (những) người đó phải là dân địa phương. Những thông tin này đã bị giấu nhẹm. Những bài báo “ca ngợi chiến công” hoặc các hội thảo từ hàng chục năm nay, mà mới nhất là “Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử”, tổ chức ngày 29-12-2017, đã không bao giờ dám nhắc đến điều này. Bên cạnh sự hoan lạc chiến thắng là một sự hèn hạ rợn người.
Ai chịu trách nhiệm lớn nhất với vai trò đầu não trong kế hoạch “xóa sổ” toàn bộ hệ thống chính quyền địa phương để xây dựng chính quyền mới là một bí ẩn lớn nhất của sự kiện Huế-Mậu Thân. Những bàn tay vấy máu đồng bào đã vội vã được chùi. Những “chứng cứ ngoại phạm” hấp tấp được bày ra. Lê Khả Phiêu, người mà hồi chiến dịch Mậu Thân là chính ủy kiêm trung đoàn trưởng Trung đoàn 9, có trách nhiệm gì không?
Một bài báo mang tựa “Gặp lại cựu tổng bí thư Lê Khả Phiêu” (Tiền Phong, 11-11-2012) có đoạn: “Đêm 24-2-1968, quân ta được lệnh rút khỏi Huế. Khi rút phải đưa hết thương binh ở phẫu tiền phương lên rừng để tiếp tục điều trị… Đồng chí (Lê Khả Phiêu) nhận trách nhiệm trước Quân khu rằng, không riêng Trung đoàn 9 mà cần phối hợp với các trung đoàn bạn khác… cùng với nhân dân thành nội Huế làm nhiệm vụ vận chuyển anh em thương binh vượt vòng vây lên căn cứ. Chính sách thương binh là đây. Tình người, tình đồng chí đồng đội là đây”… Ừ thì đây: một bài báo khác, đề tựa “N. Vietnamese Die Chained to Their Gun Posts” của ký giả Fred Emery đăng trên Times of London ngày 16-2-1968, viết rằng ông thấy hai thi thể lính Bắc Việt đã bị xích vào cột điện với khẩu súng máy (“Hue 1968”, Mark Bowden).
Những câu chuyện bi thảm về chiến tranh Việt Nam đáng lý không được nhắc lại. Nhưng, khi mà những oan hồn chiến tranh còn chưa được giải và những bàn tay nhuốm máu còn chưa được rửa với sự thành khẩn ăn năn để chắp lạy nén nhang trước vô số cái chết oan ức thì liệu mọi thứ có thể bỏ quên đi hoặc để vùi lấp vào bụi lịch sử? Chúng ta sẽ nói gì với thế hệ trẻ, để giải thích tại sao hôm nay cả thành Huế lại chít khăn tang để làm giỗ cho hàng trăm oan hồn, trả lời sao với con cháu rằng lý do gì ông bà cha mẹ anh chị cô chú mình bị giết và ai giết? Cho đến giờ, vẫn còn có màn vỗ tay cười cợt trước những dải khăn tang.
Nếu người ta tiếp tục khạc nhổ những bãi đờm nhơ nhớp vào lịch sử và giẫm đạp lên xác chết chiến tranh trong đó có cả chiến sĩ đồng đội mình thì những câu chuyện này vẫn cần được nhắc lại, không phải để khinh bỉ, không đáng và cũng chẳng cần, mà để cho thế hệ trẻ hiểu được cuộc chiến “giải phóng dân tộc” nó đầy dãy tội ác như thế nào, để họ hiểu dối trá và bưng bít cũng là một tội ác, và để họ nhận thức rằng những hành động kinh tởm đó đừng bao giờ được lặp lại với đồng bào và dân tộc mình./.
















MỤC LỤC BNS 04.
1/- Đức tin là chìa khóa.  Trang 01.
2/- Thánh-Thất Cầu-Kho 1 Février 1927…. 06.
3/- Thảm trạng quốc dân Việt Nam…. 07.
4/- Ngụ đời 03.    … 09.
5/- Báo cáo của Đặc phái viên LHQ về tự do tôn giáo. Tr 10.
6/- 50 năm sự kiện Huế-Mậu Thân: Ai chịu trách nhiệm? tr 26.