Ra ngày 15. 01. 2018.
ĐỨC TIN LÀ CHÌA KHÓA.
Từ thử nước Nam chẳng Đạo nhà,
Nay ta gầy dựng lập nên ra.
Ví bằng ai hỏi sau bao nã,
Rằng trẻ noi sau biến hóa già.
Thiên Thơ.
Gần đây có một số anh chị báo tin về quyết
định từ bỏ con đường tranh đấu cho quyền thực hành tôn giáo của Đạo Cao Đài
1926 tại Việt Nam và tham gia vào các đảng phái chính trị.
Các anh chị lý luận rằng nhà lãnh đạo đảng
phái đó đi thiền định trên sa mạc hàng chục năm rồi được lịnh của thiên thần
bảo phải về cứu nước Việt Nam nên mới lập ra đảng phái. Cho nên nhà lãnh đạo
nầy cũng nói về bác ái, công bằng… Y NHƯ ĐẠO CAO ĐÀI.
Đặc biệt là luận cứ:
Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền một cách
độc đoán, tàn bạo với dân, vơ vét tài nguyên và bám vào Trung cộng để tồn tại….
Tình thế của đất nước hình chữ S hiện nay
y như lời Đức Hộ Pháp thuyết đạo vào ngày 26. 09. 1950 (Trung Thu Canh Dần):
Giờ phút quyết liệt này Bần Đạo tiên tri
rằng: Nếu quốc dân Việt Nam không tin với nhau, để cho Bắc thuộc lần thứ hai
nữa, thì không có phương pháp nào giải ách nô lệ cho đó vậy.
Đó là duyên cớ để các anh chị đi đến quyết
định: phải tham gia vào các đảng phái chính trị để lật đổ chế độ cộng sản, bảo
vệ giang sơn rồi mới tính đến chuyện tôn giáo.
Tôi xin có mấy nhận định:
I/- Che dấu thực chất của một đảng phái
chính trị.
Những nhà lãnh đạo nầy biết rất rõ rằng
nhiều người Việt Nam vốn có tinh thần tín ngưỡng nên cách hay hơn hết là làm
sao đem màu sắc tín ngưỡng để che dấu thực chất của họ là một đảng phái đang
chờ thời cơ để nắm chánh quyền hay chờ thời cơ để liên hiệp nhau tạo thành bộ
máy cai trị người dân mà không chắc rằng họ cho người dân có quyền lựa chọn.
Bằng cớ là họ đã xưng những chức vụ to lớn, xưng tướng, xưng tá tùm lum ra đó.
Điều nầy hoàn toàn khác với bản sắc của
Đạo Cao Đài 1926: Không chống chánh quyền, không theo chánh quyền và không tham
gia chính quyền. Đó là làm theo lời dạy
của Đức Chí Tôn: Đạo và chánh trị chẳng có buổi liên hiệp cùng nhau.
Họ có tham vọng nhưng không có thực tài
nên lợi dụng giáo lý tôn giáo rồi đem pha trộn với lời Đức Hộ Pháp tạo ra sự mơ
hồ để lợi dụng. Lời giảng của Phật, của Chúa từ mấy ngàn năm trước thì không
thể nói những điều cận kề về hiểm họa phương Bắc như Đức Hộ Pháp đã nhấn mạnh
rất nhiều lần. Cho nên muốn tìm luận cứ có liên quan đến thời cuộc thì tìm đến
lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp là có đầy đủ. Món hàng có giá trị thì mới bị lợi
dụng, Đức Hộ Pháp là giáo chủ Đạo Cao Đài thì tư tưởng, suy nghĩ của Ngài có
tầm vóc chiến lược cho tôn giáo, dân tộc hay nhân loại nên những giá trị ấy bị
lợi dụng cũng là lẽ đương nhiên.
Tôi đã từng gặp những sĩ quan cấp tá công
an cộng sản giả vờ mộ đạo lên núi Bà Đen tịnh luyện ban ngày (còn ban đêm thì
nhậu nhẹt lu bù) rồi làm mấy bài thơ nói về Hội Long Hoa, nói về sự cao cả của
Đạo Cao Đài, về Đức Di Lạc rồi vào vai tầm đạo để thâm nhập vào hàng ngũ Cao
Đài 1926 để lấy tin và gài bẫy cho công an bắt. Sau mổi phi vụ thì các vị đó
thăng quan tiến chức nên đố ai thấy được họ ở nơi am cốc vừa qua.
II/- Muốn hiểu đúng: Phải nhìn cả hệ
thống.
Sự lo lắng của Đức Hộ Pháp về hiểm họa đến
từ phương Bắc là điều hiếm thấy so với các nhà lãnh đạo tôn giáo thời điểm năm
1950. Vậy muốn tránh hiểm họa phương Bắc người theo Đạo Cao Đài 1926 phải làm
gì?
Muốn tránh hiểm họa phương Bắc người Đạo Cao
Đài là phải bảo tồn và phát huy chánh pháp của Đạo Cao Đài 1926. Bởi vì trong
chánh pháp của Đạo Cao Đài 1926 có kế sách để bảo tồn quốc hồn quốc túy. (Chớ
chẳng phải vứt bỏ đường lối của đạo để đi theo các đảng phái. Sic.)
Đây chính là sự đặc biệt của tôn giáo Cao
Đài.
Tôi xin chứng minh như sau.
1/- Đạo lập quyền cho nhân loại.
Về hành chánh tôn giáo: Đạo phân ra lập
pháp, hành pháp và tư pháp rất phân minh. Pháp Chánh Truyền được xem như hiến
pháp của tôn giáo ấn định rõ bộ máy thượng tầng: Có bao nhiêu cấp. Mổi cấp có
bao nhiêu phẩm. Quyền hành mổi phẩm rõ ràng. Muốn thăng phẩm phải làm như thế
nào. Đặc biệt là có thiết kế quyền hành của Nữ phái song song với quyền hành
Nam phái. Nghiêm cấm sửa đổi Pháp Chánh Truyền trong mọi trường hợp. Đây là văn
bản pháp luật cao nhất nên tất cả các qui định (luật) sau đó phải tùng theo
pháp.
Pháp Chánh Truyền ban quyền cho hạ tầng
minh bạch và không giới hạn số lượng của hạ tầng. Do vậy mà thượng tầng không
thể lấn lướt hạ tầng.
Nhìn sâu vào triết lý của Pháp Chánh
Truyền thì chính là đưa thượng tầng vào khuôn khổ không để cho phát sinh tùy
tiện theo ý muốn của thượng tầng. Cho Hạ tầng phát triển không giới hạn chính
là bảo vệ hạ tầng không cho thượng tầng can thiệp vào.
Về chánh trị đạo: Bộ máy hành chánh tôn
giáo là để thực hiện những điều 03 Hội lập quyền vạn linh đã định và chịu sự
kiểm soát của 03 Hội. Ba Hội lập quyền ví như soạn tuồng, hành chánh là đào kép
ra diễn trước nhơn sanh. Đào kép phải trình diễn theo kịch bản chớ chẳng thể tự
tung tự tác. Nhân sự trên sân khấu thì không được quá con số đã định.
Qui định của tôn giáo minh bạch để ai cũng
hiểu, nhờ vậy tín đồ mới biết và kiểm soát được (dân phải biết rõ thì dân mới
đủ quyền làm chủ). Khi có sự cố thì biết ngay được là do đâu (tội qui vu
trưởng) chớ chẳng thể đổ thừa do bộ phận thư ký.
2/- Đạo của hòa bình, dân chủ, tự do.
Trường thi công quả của Đức Cao Đài lập kỳ
ba nầy có chủ đề:
Cao Thượng Chí Tôn Đại Đạo Hòa Bình Dân Chủ Mục.
Đài Tiền Sùng Bái Tam Kỳ Cộng Hưởng Tự Do Quyền.
Theo đó thì chủ trương của đạo là đoàn
kết, và hổ trợ nhau (cộng hưởng) để xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ, tự do.
Đạo kiến tạo tinh thần hòa bình để chung
sống. Thiết kế cơ chế dân chủ có nhân quyền và tự do trong đạo đức. Nền đạo
muốn được danh nghĩa là chơn chánh phải làm cho người dân mạnh mẽ, tự nhiên nhà
nước nhà nước phú cường. Dân là gốc của nước cho nên đạo chủ trương làm cho dân
mạnh mẽ thì mọi điều tốt đẹp sẽ đến. Cái gốc đã mạnh mẽ, hoa trái phải tốt
tươi. Đạo không kêu gọi làm cho dân giàu như những chủ nghĩa mị dân. Đạo làm
cho dân mạnh thì cái giàu tức khắc sẽ tới. Đó là cách làm theo chủ trương vô vi
của Đức Lão Tử.
Nhìn vào Đảng cộng sản cai trị đất nước
hiện nay, chúng ta thấy họ đã tước đoạt hết những quyền cơ bản của người dân,
dân bị đảng coi như súc vật nhưng chúng vẫn kêu gào xây dựng xã hội dân giàu,
nước mạnh. Đảng đang đưa dân tộc đi trên con đường không bao giờ đến.
Đạo chủ trương nâng người nghèo khó về vật
chất, thiếu hiểu trong xã hội thành người có cuộc sống ấm no và có hiểu biết về
hòa bình, dân chủ, tự do và biết hổ trợ nhau để đạt được cứu cánh thì đó là đại
kỵ với cộng sản.
Muốn có xã hội hòa bình thì đạo chủ trương
làm cho dân mạnh:
Cầu xin trăm họ bình an,
Nước giàu dân mạnh thanh nhàn muôn năm.
Đạo Cao Đài và cộng sản khác nhau từ triết
ý cho đến hành vi, cho nên cộng sản ra bản án Cao Đài ngày 20. 07. 1978 để diệt
đạo là điều dễ hiểu.
3/- Đạo của tình thương và nghĩa hiệp.
Xưa Đức Khổng Tử dạy về công bình: điều gì mình không muốn thì đừng làm cho
người.
Nay Đạo Cao Đài dạy: mình muốn nên đạo thì phải giúp cho người nên đạo trước. Hể mình
giúp cho người nên đạo thì ngôi vị mình tự nhiên sẽ có theo nguyên tắc: Dâng
công đổi vị.
Hội Thánh Cao Đài đã dùng 05 phương án:
gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo để nâng cao dân đức, dân
trí, dân sinh. Đạo đã biến vùng đất rừng, nghèo thổ nhưỡng thành một vùng trù
phú và có nếp sống văn hóa đặc sắc. Châu Thành Thánh Địa là nơi có nhiều người
ăn chay nhất Việt Nam. Biết chia vui sớt nhọc với nhau khi hữu sự nơi xóm
riềng, một người mãn phần thì cả xóm chung lo, cúng tế thì dùng toàn đồ chay và
hoàn toàn miễn phí từ A à Z.
Hội Thánh kiến thiết Tòa Thánh là cơ sở
trung ương của Đạo với những thể pháp ẩn tàng văn hóa Đông Tây để xây dựng xã
hội mới. Đưa nhân loại từ địa cầu 68 (là địa cầu hiện tại) lên địa cầu 67 với
nếp sống thăng bằng giữa tinh thần và vật chất. Văn minh Cao Đài hướng dẫn nhân
loại liên lạc với thế giới vô hình bằng cơ bút.
Đó là nền văn minh tâm linh.
Hội Thánh đã kiến thiết vùng thánh địa với
tỷ lệ đường giao thông rất cao, không nơi nào ở Việt Nam sánh kịp. Đạo hoàn
thành các công việc trên trong vòng 50 năm (từ 1926- 1975). Thành quả sơ lược bên trên là do nơi Đức Chí
Tôn và các Đấng thiêng liêng có sứ mệnh trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ chỉ dẫn cho
Hội Thánh thực hiện.
III/- Không đủ đức tin cho nên bỏ cuộc.
Ngày 01. 02. 1927 Thầy dạy:
… Ấy vậy các con phải lưu tâm mà chấn hưng mối Đạo; ấy là kế bảo
tồn quốc túy, lại là phương thoát tục. Cơ
Trời Thầy không lẽ tỏ ra đây, song các con nên biết xét mình là đứng vào địa vị
tối cao hơn muôn loại, nên các con phải có trí độ phi phàm thì mới có đủ tư
cách làm người… (Xin
xem trọn bài đăng sau bài phân tích nầy.)
Như vậy những điều trình bày trên đây
chính là từ trong lời dạy của Đức Chí Tôn mà có.
Đạo Cao Đài có các bài bản trên đây thì đủ
tư cách để xây dựng xã hội, bảo tồn quốc hồn, quốc túy, bảo tồn được biên
cương, biển đảo.
Người cộng sản đã nhìn ra chân tướng của
Đạo Cao Đài 1926 cho nên ra sức diệt đạo để bán đứng giang sơn cho Tàu cộng, và
từng bước xóa bỏ văn hóa Việt thường. Cho nên chúng ta tranh đấu cho quyền thực
hành tự do tôn giáo của Đạo Cao Đài 1926 chính là bảo vệ quyền làm người, bảo
vệ quốc hồn, quốc túy nói trắng ra bảo vệ giang sơn nòi giống.
ĐẤNG MINH QUÂN trong thời toàn cầu hóa
không phải là một con người như thời văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp
mà chính là một chính nghĩa, một tổ chức có đường lối, có công thức, có mô
hình, có bộ máy để xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ, tự do.
Thời văn minh nông nghiệp bàn chân của Đức
Chúa đi trước nhân loại nên họ đã đóng đinh bàn chân ấy. Bàn tay của Đức Chúa
muốn nâng đở người nghèo khổ, yếu kém nên bàn tay ấy cũng bị đóng đinh; bởi tà
quyền không muốn điều tốt đẹp của Chúa được thực hiện.
Thời năm châu chung chợ bốn biển chung nhà
Đức Di Lạc Vương ra đời phải ẩn mình trong lớp áo Hộ Pháp Phạm Công Tắc để cho
kẻ hung bạo không bị cái tội như tội đóng đinh Đức Chúa. Ngài đã đến và xây
dựng xong bài bản cho Đạo Cao Đài thực hành như một phòng thí nghiệm để kiểm
chứng.
Khi đã kiểm chứng xong thì chúng ta phải
biết giá trị của MINH QUÂN CHUYỂN THẾ và trình ra thế giới. Cho nên nếu đủ đức
tin nơi Chí Tôn thì mổi khi có biến sự, có điều chi quá sức hiểu của mình thì
đi tìm học trong thiên thơ (là 02 quyển Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).
Ngoài thiên thơ còn cha, còn chú bác (Ngoài nữa còn cha còn chú bác, Làm gương cho
đáng mới nên trò) theo đó nếu không hiểu thì quay lại với chính mình bằng
cách tịnh tâm để cầu khẩn cho mình hiểu được chân lý ấy là người đủ đức tin nơi
Thầy Trời. Còn như không đủ đức tin thì đi tìm tới các đảng phái chính trị rồi
cho họ là minh quân và xông bờ lướt bụi, đi quanh kiếm quất mà cái kết quả
chẳng biết thể nào.
Nhiều người theo Đạo Cao Đài biết rằng khi
Đức Chí Tôn đến dạy đạo ngài Phạm Công Tắc thưa rằng: Đất nước con còn nô lệ,
con phải góp phần gở bỏ ách nô lệ rồi mới tu được. Đức Chí Tôn dạy rằng: Việc
đó con muốn lo cũng lo không được, vậy cứ lo cho đạo đi còn việc phục quốc để
Thầy tính cho. Gương xưa còn đó nhắc lại để cùng nhau tin rằng theo Đức Chí Tôn
chính là bảo tồn nòi giống và cũng là phương thoát tục./.
Đạo Hữu Dương Xuân
Lương.
Skype: thu.john2.
Thầy lấy làm không bằng lòng cho mấy đứa vắng mặt hôm nay. Ngày giờ thôi thúc mà các con còn dụ dự giữa chừng. Nền Đạo cao thâm là mấy, chí phàm không thấu lý sâu; nếu các con chẳng ra khỏi vòng trần tục, thì các con chẳng là luống công theo Thầy kể đã đầy năm. Kiếp trần ai lắm nỗi Vày vò, các con ở nhầm thời đại nầy gặp đặng lắm cuc tân toan, nên mới để ý vào đường Đạo-Đức. Nếu chẳng vậy thì các con cũng đã như ai, đem thân vùi dập trong chốn lợi quyền, tranh tranh cạnh cạnh biết ngày nào rồi?
Ấy vậy các con phải lưu tâm
mà chấn hưng mối Đạo; ấy là kế bảo tồn quốc túy, lại là phương thoát tục. Cơ Trời Thầy
không lẽ tỏ ra đây, song các con nên biết xét mình là đứng vào địa vị tối cao
hơn muôn loại, nên các con phải có trí độ phi phàm thì mới có đủ tư cách làm
người. Các con nên biết Thầy sanh ra mỗi chủng tộc đều có đặc biệt một phần
linh diệu riêng, mà cũng vì nhơn loại không chịu khó tìm tòi cho ra lẽ thiên
nhiên, cứ thấy những điều cận lợi mà quên hẳn lương tâm; chẳng hay thương mà
hay chém giết lẫn nhau; sanh phương tiện thông đồng không muốn, lại tìm kế sát
hại lẫn nhau.
Nếu các con vì Đạo Thầy là
Đạo gìn công-lý mà biết mấy sự đó tránh đi, và rủ nhau hiệp làm mối Đại-Đồng,
thì chẳng những thuận lòng Trời, mà nhơn-loại đặng gội nhuần ân-huệ. Các con
hiểu à!
THẢM TRẠNG QUỐC DÂN VIỆT
NAM
Tại Đại Đồng Xã trong dịp Tết Trung Thu, ngày rằm tháng 8 năm
Canh Dần (1950)
Nói
về cái thảm trạng của quốc dân Việt Nam hồi thuở lập quốc, một tình trạng thống
khổ đã làm cho Bần Đạo phải nghẹn ngào. So sánh lại 5 năm bị đồ lưu nơi Hải
Ngoại thảm khổ đường nào, chẳng cần minh tả ra cả thảy con cái Đức Chí Tôn cũng
đều thấu đáo, và quyết định giá trị thế nào?
Bần
Đạo xin quả quyết rằng: Thống khổ 5 năm đồ lưu nơi Hải Ngoại không bằng đã thấy
cái thống khổ hiện trước mắt một cái tấn tuồng đau đớn là nòi giống Việt Nam
tàn hại lẫn nhau, Bần Đạo đã trọn một kiếp hy sinh để tạo hạnh phúc cho toàn
thể con cái của nòi giống Lạc Hồng, chính Bần Đạo cũng là một phần tử trong ấy.
Cái
tranh đấu đem cả sanh mạng ra để làm giá trị chung cho đời cho Đạo thì chưa có
biết thối bước trước tình trạng khó khăn nào, dầu thống khổ dường bao? Không có
năng lực nào làm ngăn trở bước đường của Bần Đạo được. Quyết thắng, quyết đi
cho đến mục đích cuối cùng.
Thật
ra là Hành Chánh Đạo trót cả một đời chưa có khi nào làm cho Bần Đạo đã thấy,
hiện nay là quốc dân Việt Nam đương chiến đấu đặng giải ách nô lệ cho quốc dân
đã chịu tám mươi năm, đem văn hiến, đem tinh thần tối cao của nòi giống để làm
giá trị, là phương pháp thâu đoạt cho đặng độc lập và thống nhứt thiệt hiện đối
với nước chinh phục chúng ta là Pháp. Cái yếu điểm tranh đấu với Pháp là cái
quan niệm giải phóng cho nòi giống Việt Nam.
Hôm
nay đã gần đạt thành mục đích, chính một trường thảm khổ đã trải trước mắt nòi
giống Việt Nam là người ta đem cho nền độc lập thống nhứt Việt Nam bằng chủ
nghĩa cộng sản, nhưng Bần Đạo không phiền trách cái tranh đấu của họ, bao giờ
họ cũng tranh đấu để tạo hạnh phúc chung cho nòi giống họ đặng trọn quyền. Duy có
một điều là họ chuyên quyền tàn sát nòi giống của họ.
Bần
Đạo chỉ sợ có một điều là ách nô lệ 80 năm, với một quốc dân hai mươi lăm triệu
này chưa có thể chiến thắng đặng, sợ e cho những kẻ quả quyết dùng thuyết duy
vật ngoại bang đem vào đây cho nòi giống Việt Nam phải điêu tàn, sẽ trở nên
người Mườn, Mán, Mọi hay là Lô Lô chẳng hạn.
Bây
giờ họ còn chung sống trong hoàng đồ của chúng ta, chúng ta phải coi chừng, nòi
giống Việt Nam phải cho khôn ngoan sáng suốt, vận mạng tồn vong hay vinh quang
đều ở trước mắt chúng ta, chúng ta đừng để cho kẻ thù địch mưu chước lợi dụng
xương máu của chúng ta, mà nòi giống Việt Nam phải đi đến con đường tự diệt và
tự mình hại lấy mình thì không phương pháp nào? Dầu cho Đức Chí Tôn cứu vãn
tình thế này định tương lai cao trọng thế nào cũng không cứu vãn đặng; phải
thương yêu với nhau, hiệp đồng cùng nhau, mới có thể quyết thắng đặng.
Giờ
phút quyết liệt này Bần Đạo tiên tri rằng: Nếu quốc dân Việt Nam không tin với
nhau, để cho Bắc thuộc lần thứ hai nữa, thì không có phương pháp nào giải ách
nô lệ cho đó vậy./.
Jeudi 13 Janvier 1927 (10-Tháng Chạp Bính Dần).
THÁI BẠCH
Hỉ chư Ðạo Hữu, chư Ðạo Muội,
chư Nhu,
Ngồi kiết tường.
Hộ Pháp Hiền Hữu ngâm hai bài
trước, Thượng Phẩm Hiền Hữu hãy đề hai bài số 1 và số 2 Lão còn kết.
Chú giải: Chinh chuyên: chinh là nghiêng; chuyên là chở. Chở
nghiêng nghĩa là chở nặng nề.
Thần Huệ Kiếm: Huệ trí vỉ vi
kiếm tác Ðạo giả: Lấy huệ trí làm gươm mà hành Ðạo...
#
3:
Dân
dưới phép tụng đình,
Nước dưới phép đao binh.
Nhà dưới phép luật hình,
Còn chi hai chữ thái bình.
Ngửa nghiêng chín bệ gập ghình ba châu,
Non sông nhuộm một màu sầu.
Nền giao cỏ láng sân chầu sương phong,
Dân chẳng hiệp đồng,
Quan chẳng vị công,
Vua chẳng phải giòng,
Về Ðông hết kế Tử Phòng,
Ðoạt binh thơ chẳng Trương Tòng mưu mô.
Tiếc thay một gánh cơ đồ,
Xa thơ khuất dấu ngọn cờ bặt tăm.
Nòi anh phong đó, cơ nghiệp hỏi ai cầm?
Nước dưới phép đao binh.
Nhà dưới phép luật hình,
Còn chi hai chữ thái bình.
Ngửa nghiêng chín bệ gập ghình ba châu,
Non sông nhuộm một màu sầu.
Nền giao cỏ láng sân chầu sương phong,
Dân chẳng hiệp đồng,
Quan chẳng vị công,
Vua chẳng phải giòng,
Về Ðông hết kế Tử Phòng,
Ðoạt binh thơ chẳng Trương Tòng mưu mô.
Tiếc thay một gánh cơ đồ,
Xa thơ khuất dấu ngọn cờ bặt tăm.
Nòi anh phong đó, cơ nghiệp hỏi ai cầm?
#
4:
Cũng
xương, cũng thịt, cũng khí, cũng huyết Nam,
Cũng văn, cũng pháp, cũng phong, cũng tục Nam,
Cũng xã tắc, cũng triều đình của nhà Nam.
Ngôi Tiên đã lấm gót phàm,
Kẻ chăn dân lại ra làm con buôn.
Dân như cá chậu gà chuồng,
Tiếng oan trăm họ trêu buồn ngậm than.
Cũng văn, cũng pháp, cũng phong, cũng tục Nam,
Cũng xã tắc, cũng triều đình của nhà Nam.
Ngôi Tiên đã lấm gót phàm,
Kẻ chăn dân lại ra làm con buôn.
Dân như cá chậu gà chuồng,
Tiếng oan trăm họ trêu buồn ngậm than.
Bát
Quái:
Quốc
gia nghèo nàn, dân khó mở mang,
Lăng điện phá hoại, Văn miếu bỏ hoang,
Trí quân lánh mặt, hồn nước điêu tàn.
Gặp cơn xúi ác giục loàn,
Người ngay tránh dạng, đứa gian khoe mình.
Tỷ như một đám bù nhìn,
Cân đai một vẻ thân hình một nơi.
... Ấy cũng gọi đời .......
Lăng điện phá hoại, Văn miếu bỏ hoang,
Trí quân lánh mặt, hồn nước điêu tàn.
Gặp cơn xúi ác giục loàn,
Người ngay tránh dạng, đứa gian khoe mình.
Tỷ như một đám bù nhìn,
Cân đai một vẻ thân hình một nơi.
... Ấy cũng gọi đời .......
Lão dặn Thượng Phẩm phải biên
số, là vì điệu văn Ðộng Ðình chẳng phải mỗi điệu vậy là dứt, Lão còn kết thêm
nữa.
Tỷ như:
Bài số một, gọi là điệu Thái Cực.
Bài thứ nhì, gọi là điệu Lưỡng Nghi.
Bài thứ ba, gọi là điệu Tứ Tượng.
Bài Lão nói là điệu Bát Quái.
Vậy Lão làm tiếp rồi sẽ chỉ....
Bài số 4:
.... Hộ Pháp giải nghĩa.... Vậy
thì gọi là điệu Thái Cực là sao? Lão chỉ cho Thượng Phẩm: - Ðọc bài số 1, khi
nhập đề như vậy, thì là không không, chưa hiểu căn cước đề thân, thì gọi là
nhập: Hư Vô. Thái Cực là vì đó một tiếng. Nhập lại Hư Vô.
Bài số 2 ba tiếng là Tam
Giáo. Sĩ dân hai tiếng ấy là Lưỡng Nghi.
Bài số 3, ngũ ngôn ấy là Ngũ
Chi. Bốn chữ ... Tứ Tượng là đó.
Bài số 4, chín chữ là Cửu
Lưu đó. Tám chữ ... ấy là Bát Quái.
Lão sẽ tiếp điệu Biến Hóa Vô
Cùng rồi mới kết cho toàn điệu.
Chư Ðạo
Hữu lấy điệu văn ấy làm ra mỗi người một bài cho Lão sửa. Phải tùy theo từ chữ,
từ giọng, vậy mới trúng niêm luật; bài của Lão chỉ dùng làm kiểu đó thôi...
Liên Hiệp Quốc
|
A/HRC/28/66/Add.2
|
ĐẠI HỘI ĐỒNG.
Distr.: General
30 tháng 1 năm
2015
(Bản dịch của
BPSOS và Liên Minh cho một Việt Nam Tự
Do và Dân Chủ)
Hội đồng Nhân
quyền
Kỳ họp thứ 28
Chương trình nghị
sự 3
(Tiếp theo 1.)
TRANG 07
loại hoạt động - khi thái độ của cá nhân
hay cộng đồng bị xử- được xem là đi ngược lại với lợi ích của Nhà nước. Chính
phủ có thể dùng ưu quyền này để giới hạn các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng
vì các nhóm đó có khả năng kêu gọi và tổ chức tín đồ.
25/. Báo cáo viên
đặc biệt đã suy diễn ra sau nhiều cuộc thảo luận trong chuyến viếng thăm này
rằng sự tối nghĩa trong các ngôn từ về luật pháp không chỉ là một vấn đề lý thuyết.
Điều 258 thường được viện dẫn và áp dụng để bắt giữ những người chống lại các
hạn chế nhằm vào quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, hay nhân quyền khác,
chẳng hạn như tự do ngôn luận và tự do lập hội và hội họp. Khi đặt câu hỏi về
các tù nhân lương tâm, Báo cáo viên đặc biệt đã được đảm bảo rằng không có vụ
việc nào xảy ra như vậy ở Việt Nam. Thực tế cho thấy số người bị kết tội theo
Điều 258 và tính chất mơ hồ của điều này đã khiến cho sự đảm bảo đó thật là khó
tin.
C/. Quy
định hành chính về hoạt động và thực hành tôn giáo hay tín ngưỡng
26/. Một vấn đề chính yếu trong hầu hết các cuộc
thảo luận của chuyến thăm viếng này liên quan việc đăng ký của các cộng đồng
tôn giáo hay tín ngưỡng. Mặc dù Điều 5 của Pháp lệnh 21 quy định rằng Nhà nước
đảm bảo quyền thực hành các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, Pháp lệnh 21 có rất
nhiều các quy định được tăng cường bởi Nghị định 92 liên quan đến các hoạt động
của cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng.
27/. Nghị định 92 ấn định các điều kiện và đòi hỏi
việc đăng ký cho hoạt động và điều hành các hoạt động tôn giáo hoặc tín ngưỡng.
Các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng phải xin giấy phép cho việc xây dựng hay
chỉnh trang các nơi thờ tự; họ phải trình bày cho cơ quan chức năng địa phương
một tổng quan về hoạt động hàng năm đã được đặt ra; họ phải thông báo cho cơ
quan chức năng về việc phong chức sắc giáo sĩ và trong một số trường hợp phải
được sự chấp thuận của chính quyền; và họ phải được chính quyền địa phương cho
phép việc cử hành các nghi lễ công cộng. Như vậy, các quy định nêu trong Pháp
lệnh 21 và Nghị định 92 bao gồm các nghĩa vụ liên quan đến thông tin và thông
báo cũng như cho phép chính thức trước khi được thực hành một số hoạt động tôn
giáo, tín ngưỡng.
28/. Các yêu cầu quá mức trong các quy định này chắc
chắn sẽ là những gánh nặng cho các hoạt động của cộng đồng tôn giáo. Nghị định
92, với những đòi hỏi hành chính khác, đã làm cho sinh hoạt của các cộng đồng
tôn giáo hay tín ngưỡng khó khăn hơn, mặc dù khoảng thời gian mà các cơ quan
chức năng phải trả lời được rút ngắn đi so với trước đây. Trong trường hợp
quyết định bác đơn, giới thẩm quyền bắt buộc phải nêu rõ lý do.
29/. Theo Điều 16 của Pháp lệnh (6) [6], các tổ
chức phải đáp ứng một số tiêu chí để được công nhận về mặt pháp lý.
Những điều kiện này
nhằm mục đích, ngoài những lý do khác, đảm bảo sự tôn trọng "những mỹ tục
và thói quen tốt đẹp cũng như lợi ích quốc gia". Điều 6 của Nghị định 92
cũng ấn định là các đòi hỏi khác phải được đáp ứng trước khi đăng ký trong đó
có thời gian mà các tổ chức tôn giáo đã sinh hoạt về tôn giáo thường xuyên ít
nhất là 20 năm kể từ ngày được chấp thuận bởi Ủy ban nhân dân cấp xã cho các
hoạt động tôn giáo. Không đi sâu vào chi tiết của các quy định này, Báo cáo
viên đặc biệt muốn nêu ra hai điểm cần lưu ý, đặc biệt quan trọng liên quan đến
tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.
30/. Điểm thứ nhất liên quan đến bản chất của sự đăng ký và
chúng ta cần xét lại xem đó là một sự đề nghị hay một đòi hỏi chính thức.
Báo cáo viên đặc biệt nhận được quan điểm khác nhau về điều này, và có vẻ đây
là một sự thiếu rõ ràng. Trong khi một số đại diện của Chính phủ đã nói rõ ràng
rằng nếu không đăng ký hợp pháp với chính quyền, các cộng đồng tôn giáo, tín ngưỡng sẽ không được phép
hoạt động; những người khác thì cho rằng các cá nhân của các giáo phái không
cần được "cho phép" để thực hành một số nghi thức tôn giáo cơ bản,
chẳng hạn như tổ chức các cuộc tụ họp tôn giáo tại nhà riêng, miễn là nhà chức
trách được thông báo trước về các hoạt động đó. Ngay cả khi chúng ta chấp nhận
sự giải thích sau, mục tiêu của quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng vẫn còn bị
hạn chế rất nhiều và không an toàn. Hơn nữa, khái niệm về sự "cho
phép" không được rõ ràng. Sự "cho phép" đó vẫn còn quá tụt hậu
so với quyền hợp pháp mà các cộng đồng có thể làm căn cứ cho quyền tự do tôn
giáo hay tín ngưỡng của các thành viên.
.....................
(6)/ điều 16 (1)
của Pháp Lệnh 21
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 08
31/. Trong bối cảnh này, thuật ngữ "công
nhận", thường được đề cập đến trong các cuộc đối thoại, xứng đáng được có
một lời diễn giải ngắn gọn. Việc thực thi quyền con
người liên quan đến tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của các cá nhân và/hoặc trong
cộng đồng với những người khác, không thể phụ thuộc vào bất kỳ một quyết định
nào về phương diện hành chính của chính quyền như: công nhận, cho phép hay phê
chuẩn. Là một quyền phổ quát, tự do tôn giáo hay tín ngưỡng hiện hữu trong tất
cả con người, và tồn tại trước khi có bất cứ quyết định về hành chính và thủ
tục nào đó. Lời mở đầu của bản Tuyên Ngôn năm 1948 về Nhân Quyền bắt đầu
với câu:"công nhận phẩm giá vốn có và những quyền bình đẳng và bất khả xâm
phạm của tất cả các thành viên của đại gia đình nhân loại". Chữ "công
nhận" ở đây nói về nguyên tắc căn bản của sự tôn trọng nhân phẩm và nhân
quyền trong sự giao tiếp giữa người và người. "Công nhận" trong ý
nghĩa cơ bản này đã nói lên sự tôn trọng tuyệt đối phẩm giá con người và các
quyền con người được đặt trên bất kỳ "công nhận" về phương diện hành
chính (7).
32/. Chúng ta cần phải thấy rõ rằng quyền tự do tôn giáo hay
tín ngưỡng của một cá nhân hay một nhóm người không được "tạo ra"
bằng bất kỳ thủ tục hành chính nào. Ngược lại, việc đăng ký cần phải phục vụ
quyền con người, mà quyền này phải luôn luôn được tôn trọng trước và trên thủ
tục đăng ký. Dựa trên cơ sở của sự hiểu biết tổng thể này, đăng ký
chỉ có thể là một đề nghị của Nhà nước, và không thể là một đòi hỏi pháp lý có
tính cách bắt buộc. Tình trạng của các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng chưa
đăng ký được xem như là một phép thử quan trọng về sự hiểu biết về quy tắc thế
nào là tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.
33/. Điểm thứ hai mà Báo cáo viên đặc biệt muốn
nêu lên liên quan đến sự hiện hữu về những dạng thái nào khác về tư cách pháp
nhân có thể dành cho các cộng đồng đã không đăng ký như là các tổ chức tôn
giáo. Với tiêu chuẩn khá cao được đề ra qua điều 16 của Pháp lệnh, điểm quan trọng là các cộng đồng tôn giáo hay tín ngưỡng
có sự lựa chọn khả dĩ một tư cách pháp nhân thay thế nào khác, nếu như họ muốn.
34/. Dưới phạm trù quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng,
các quốc gia có trách nhiệm cung cấp một cơ sở hạ tầng pháp lý và thể chế phù
hợp tạo điều kiện cho các hoạt động tự do của các cộng đồng tôn giáo và tín
ngưỡng mà không chịu gánh nặng quá mức và không bị phân biệt đối xử. Điều này
bao gồm sự lựa chọn cho các cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng để có tư cách pháp
nhân, mà họ có thể cần để thực hiện các chức năng cộng đồng quan trọng, chẳng
hạn như mua bất động sản, sử dụng đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, điều hành tổ
chức từ thiện, thành lập cơ sở đào tạo giáo sĩ hay giáo dục thế hệ trẻ. Nếu
không có sẵn hoặc có khả năng thực sự để tiếp cận tư cách pháp nhân phù hợp,
các hành động này chỉ có thể được thực hiện bởi các cá nhân tự nguyện thực hiện
chúng vì lợi ích của cộng đồng. Kết quả là, triển vọng phát triển lâu dài của
cộng đồng tôn giáo và tín ngưỡng, đặc biệt trong các nhóm nhỏ, có thể gặp nguy
hiểm nghiêm trọng.
35/. Sau nhiều thảo luận với đại diện Chính phủ về
vấn đề đăng ký, Báo cáo viên đặc biệt tin rằng đây là một lĩnh vực cần được
quan tâm và đòi hỏi những biện pháp của Lập Pháp và các biện pháp khác.
D/. Vấn đề trong
Cơ Chế Khiếu Nại trong hệ thống Pháp Lý
36/. Điều 30 của Hiến pháp năm 2013 quy định các
quyền khiếu nại, tố cáo của mọi người đối với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Thật vậy, việc thực thi hiệu quả các quyền con người, bao gồm cả quyền tự do
tôn giáo hoặc tín ngưỡng, phần lớn phụ thuộc vào sự hiện hữu của các cơ chế
khiếu nại thích hợp. Mọi người phải được quyền dùng đến các cơ chế pháp lý này
mà không cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn nặng nề thái quá. Họ phải được quyền
thách thức quyết định của nhà chức trách nếu họ cảm thấy quyền lợi của mình bị
xâm phạm. Toà án với tính cách độc lập của họ cần được giao phó nhiệm vụ thẩm
định các khiếu nại chiếu theo quy định của luật pháp.
37/. Báo cáo viên đặc biệt đã không nhận thấy bất
cứ vụ nào mà người dân đã thành công trong việc thách thức các hành vi vi phạm
quyền tự do tín ngưỡng hay tôn giáo qua hệ thống tư pháp. Các thành viên của
Toà án Nhân dân Tối cao cũng đã không biết đến một vụ thành công nào cả. Báo
cáo viên đặc biệt thấy đây là điều rất đáng ngạc nhiên, đặc biệt trong bối cảnh
của một số vụ tranh chấp đất đai mà ông được báo cáo. Một trong số
.....................
(7)/ Xin xem Tường
Trình của Báo cáo viên đặc biệt LHQ (A/HRC/19/60), bao gồm chủ đề về sự công
nhận quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng.
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 09
các cuộc xung đột rõ ràng liên quan đến tự
do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, ví dụ, khi đất trước đây được xử dụng làm nghĩa
trang tôn giáo hoặc những nơi thờ tự đã bị tịch thu cho mục đích phát triển
kinh tế.
38/. Khi thảo luận về các đề mục liên quan đến cơ
chế khiếu nại, tất cả đều được quy về các thủ tục hành chính, có nghĩa là, các
kiến nghị phải gửi đến cơ quan hành chính, từ cấp địa phương đến cấp cao hơn
của chính quyền.
Tuy nhiên, phương
thức này không thể được xem là tương đương với một nền tư pháp độc lập chịu
trách nhiệm về việc bảo đảm nhân quyền cho tất cả mọi người, kể cả trong những
liên quan đến tình trạng xung đột giữa các cá nhân hoặc các nhóm dân chúng với
chính quyền.
39/. Mặc dù Báo cáo viên đặc biệt nghe nói về một
vài trường hợp, trong đó kiến nghị gửi tới các cấp hành chính cao hơn, trong đó
có thủ tướng chính phủ, đã giúp giải quyết các tranh chấp; trong nhiều trường
hợp khác, người khiếu kiện đã không nhận được bất cứ sự phúc đáp nào từ các cơ
quan chức năng. Và nhiều trường hợp khác, cơ quan chức năng cấp cao hơn lại trả
lại hồ sơ cho cơ quan ở địa phương để xem xét lại, đã gây ra tình trạng lấp
lửng. Nhìn trên khía cạnh pháp luật, tình trạng này chưa được giải quyết thỏa
đáng.
IV/.
Quyền tự trị của các cộng đồng tôn giáo hoặc tín ngưỡng
A/.
Thái độ tiêu cực đối với các cộng đồng tôn giáo không được công nhận
40/. Đại diện
Chính phủ nhiều lần nhấn mạnh rằng, trong khi họ công nhận nhu cầu tinh thần
của dân chúng, các tôn giáo phải góp phần củng cố sự đoàn kết của dân tộc như
một tổng thể, không chỉ bằng cách phát huy các giá trị xã hội. Kỳ vọng này
dường như được thực hiện dựa trên giả định rằng giá trị tôn giáo, giá trị công
dân và các giá trị vốn có trong chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có
sự trùng nhau. Do đó, các cộng đồng tôn giáo được kỳ vọng đóng một vai trò
trong việc giáo dục, giảng dạy và duy trì các giá trị như quy định tại điều 2
của Pháp lệnh 21, trong đó nói rằng "các chức sắc tôn giáo phải có trách
nhiệm giáo dục thường xuyên các tín hữu về lòng yêu nước, thi hành các quyền
dân sự và nghĩa vụ, và ý thức chấp hành pháp luật ".
41/. Một số tôn giáo hay giáo phái đã trở thành
thành viên của Mặt trận Tổ quốc, một tổ chức quần chúng do Đảng Cộng sản Việt
Nam chỉ đạo. Một trong những tổ chức tôn giáo lớn nhất trong Mặt trận Tổ quốc
là Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đây cũng là tổ chức tôn giáo hợp pháp duy nhất
đại diện các tăng ni và tín đồ Phật giáo ở Việt Nam và ở nước ngoài. Ủy ban
Đoàn kết Công giáo Việt Nam cũng hợp tác với Mặt trận với tư cách là một hiệp
hội Công giáo. Ngoài ra còn có các tổ chức tôn giáo khác thuộc Mặt trận Tổ
quốc.
42/. Trong các cuộc thảo luận với Giáo hội Phật
giáo Việt Nam tại văn phòng trung ương của hội tại Hà Nội, Báo cáo viên đặc
biệt biết được tổ chức này bao gồm chín nhánh của Phật giáo có nguồn gốc từ
truyền thống Đại Thừa, chiếm đa số tại Việt Nam, cũng như Tiểu Thừa, Hòa Hảo và
những nhánh khác. Bằng cách hợp tác trong tinh thần đoàn kết, các trường phái
khác nhau của Phật giáo đã có thể duy trì các đặc tính và bản sắc riêng biệt
của họ đến một mức độ nào đó, bao gồm các di sản về ngôn ngữ khác nhau.
43/. Tuy nhiên, trong khi thừa nhận sự đa dạng
trong nội bộ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Báo cáo viên đặc biệt chú ý đến một
thái độ khá tiêu cực đối với sự thực hành Phật giáo bên ngoài của tổ chức. Một
số chức sắc hoạt động trong tổ chức khẳng định họ chưa bao giờ nghe nói về bất
kỳ nhóm Phật giáo độc lập nào tại Việt Nam.
Những người khác
ám chỉ đơn thuần "ý kiến riêng" cho rằng các nhóm ấy chỉ là một số cá
nhân thúc đẩy bởi tham vọng, có vấn đề về mặt đạo đức mà không xứng đáng được
quan tâm đến. Việc xử dụng các cụm từ như "ích kỷ", "tham vọng cá
nhân", "tham lam" hay "lợi dụng vật chất" từ các nhà
tài trợ nước ngoài, cho những người thực hành Phật giáo hay các tôn giáo khác
bên ngoài các tổ chức đăng ký chính thức được nhắc đến thường xuyên trong cuộc
đối thoại.
44/. Trong bối cảnh này, Báo cáo viên đặc biệt hỏi
các quan chức rằng liệu có một động cơ tích cực và khả kính nào về sinh hoạt
của các cộng đồng tôn giáo độc lập, thì không bao giờ nhận được câu trả lời rõ
ràng. Thái độ tiêu cực này đối với cộng đồng tôn giáo độc lập trùng lặp với ý
tưởng thường được nêu lên về “lợi ích của số đông” luôn được ưu tiên hơn các
quyền và lợi ích của thiểu số hoặc cá nhân bất đồng.
...............
(8)/ Xin xem điều
4, đoạn 1 của Hiến Pháp năm 2013
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 10
45/. Báo cáo viên đặc biệt muốn nhấn mạnh trong
bối cảnh này là tự do tôn giáo hay tín ngưỡng không chỉ là một vấn đề của nhóm
thiểu số. Là một quyền con người, nó liên quan đến tất cả mọi người, bất kể họ
theo một tôn giáo đa số hoặc thuộc về một cộng đồng thiểu số hoặc không có cộng
đồng tôn giáo nào cả. Việc đối xử với các dân tộc thiểu số, tuy nhiên, đáng
được chú ý đặc biệt, bởi vì đó là biểu hiện chung -- khoan dung hoặc ít khoan
dung -- về môi trường xã hội. Điều này cũng đúng đối với các cá nhân thuộc các
tôn giáo có ý kiến bất đồng, đó là các cá nhân có lập trường không phù hợp với
các cộng đồng dòng chính và các tổ chức chính thức của chúng. Chừng nào các
cộng đồng thiểu số được hoạt động tự do và độc lập và chừng nào những lập
trường bất đồng được phát biểu không sợ hãi, thì các thành viên của các tổ chức
đa số cũng sẽ có thêm không gian để thực hành tôn giáo theo cách thức phù họp
với họ.
46/. Hơn nữa, tôn trọng quan điểm của cá nhân, bao
gồm cả quan điểm bất đồng chính kiến, tạo điều kiện cho dòng chảy tự do của ý
tưởng trong xã hội nói chung, và cũng làm phong phú thêm sự tương tác giữa con
người với các thành phần chiếm đa số. Tuy nhiên, Báo cáo viên đặc biệt nhận
thấy rằng, trong một số cuộc thảo luận, "lợi ích của đa số" được đưa
ra nhằm bác bỏ những ý kiến của các nhóm thiểu số hoặc của các cá nhân bất đồng
chính kiến và cho rằng các ý kiến này là không thích hợp, hoặc thậm chí coi họ
là những người có vấn đề về đạo đức. Trường hợp tương tự cũng xảy ra trong các
cuộc thảo luận liên quan đến các cộng đồng tôn giáo độc lập, chẳng hạn như Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một số nhóm Phật giáo dân tộc thiểu số (một
số người trong thành phần này tự nhận mình là Phật tử "Khmer Krom"),
các nhóm độc lập của Hòa Hảo, Cao Đài, Tin Lành, Dương Văn Mình và Pháp Luân
Công.
47/. Trong cuộc họp với các đại diện của cộng đồng
Phật giáo độc lập, Báo cáo viên đặc biệt nghe khiếu nại về việc liên tục bị đàn
áp nặng nề, trong đó chính quyền ngăn cản các cá nhân trong việc thực hiện
quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng ngay cả ở mức độ thấp nhất. Thái độ không
công nhận việc thực hành tôn giáo không đăng ký mà ông nhận thấy trong nhiều
cuộc hội thoại, cho thấy rằng các cộng đồng Phật giáo độc lập hiện nay không
thể thực hiện quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của họ. Hơn nữa, một số tu sĩ
Phật giáo, nhận mình là người Khmer Krom, đã bày tỏ sự mong muốn của họ được
độc lập nhiều hơn, không chỉ trong phạm vi Giáo hội Phật giáo Việt Nam mà còn ở
bên ngoài tổ chức Phật giáo chính thức này của nhà nước. Tình hình của cộng
đồng độc lập của Phật giáo Hòa Hảo cũng gặp các khó khăn tương tự.
48/. Một tôn giáo hầu như không được biết đến bên
ngoài Việt Nam là Cao Đài, là sự kết hợp truyền thống của Phật giáo, Khổng
giáo, Lão giáo và Thiên Chúa giáo với một số giáo lý mới. Như trong trường hợp của Phật giáo, các tín đồ Cao Đài
được chia thành hai nhóm: những người đặt dưới sự lãnh đạo của Hội đồng Chưởng
quản Cao Đài do chính phủ thành lập, và những người muốn thực hành tôn giáo độc
lập. Các mối quan hệ giữa hai nhóm này có vẻ căng thẳng. Trong khi
đó, các tổ chức Cao Đài được công nhận chính thức buộc tội nhóm bất đồng chính
kiến về "ý định ly khai" và tạo ra "tình trạng rối" trong
dân chúng; trong khi các tín đồ Cao Đài độc lập thấy truyền thống tốt đẹp của
họ bị hủy hoại bởi sự can thiệp của Chính phủ. Họ khẳng định rằng sự can thiệp
này đã dẫn tới nhiều thay đổi áp đặt trong đạo Cao Đài.
49/. Trong khi Báo cáo viên đặc biệt không phải ở
vị thế để đánh giá chi tiết về các điểm thần học của sự xung đột này, ông kỳ
vọng Chính phủ đảm bảo sự hoạt động tự do của các cộng đồng Cao Đài độc lập và
tạo điều kiện giúp họ phát triển một cách thuận lợi phù hợp với ý muốn của họ.
Tình hình hiện nay của các nhóm Cao Đài độc lập chắc chắn là không phù hợp với
quyền tự do tôn giáo hoặc tín ngưỡng, vì cộng đồng của họ không còn các cơ sở
thích hợp cho việc thờ phượng và giảng dạy; và đồng thời họ bị áp lực để tham
gia các tổ chức chính thức.
B/.
Giáo dục và huấn luyện tôn giáo
50/. Điều 19 và
Điều 20 của Luật Giáo dục năm 2005 nghiêm cấm việc rao giảng tôn giáo trong các
trường học và cơ sở giáo dục khác ở Việt Nam. Luật vẫn khuyến khích những
"phong tục tốt đẹp" của các tín ngưỡng và lễ hội khác nhau nhưng lại
cảnh báo chống lại "mê tín" hoặc những niềm tin và hoạt động nào bị
xem là hủ tục.
51/. Trong khi đó,
số lượng các cơ sở đào tạo giáo sĩ thuộc các tôn giáo khác nhau đã tăng lên
đáng kể trong những thập niên gần đây. Theo thông tin của Chính phủ, có 46 cơ
sở huấn luyện về tôn giáo trong nước. Trong khi
...................
(9)/ xem
TườngTrình của Báo cáo viên (A/HRC/22/51), gồm chủ đề về quyền tự do tôn giáo
của nhóm thiểu số.
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 11
các cộng đồng tôn giáo quyết định các phần
chính của chương trình huấn luyện, chẳng hạn như việc giảng dạy các học thuyết
thần học, cách áp dụng các học thuyết này vào thực tế, việc thưc hành các nghi
lễ, cũng như lịch sử của cộng đồng thì theo Điều 14 và 15 của Nghị định 92,
chương trình huấn luyện cũng bao gồm các môn học bắt buộc về lịch sử và pháp
luật của Việt Nam do Bộ Giáo dục và Huấn luyện cung cấp và giám sát. Báo cáo
viên đặc biệt cũng nhận thấy rằng chủ nghĩa Mác-Lênin là một phần của chương
trình giảng dạy bắt buộc.
52/. Ngoài các cơ
sở huấn luyện, ở Việt Nam không có các trường học của các tôn giáo hay giáo phái.
Tuy nhiên, Giáo Hội Công Giáo có mở một số nhà trẻ và các nhà trẻ này thường có
liên quan đến một nhà Dòng nào đó.
Các nhà trẻ này
nhận trẻ em từ nhiều tôn giáo khác nhau ngoài Công giáo. Một số tổ chức tôn
giáo đã bày tỏ mong muốn thành lập các trường đào tạo cho các trình độ cao hơn,
điều mà hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn và cần phải thương lượng trong một
thời gian dài với Chính phủ.
C/. Bổ
nhiệm các chức sắc tôn giáo
53/. Theo Chính
phủ, các cộng đồng tôn giáo có thể bổ nhiệm và phong chức cho các giáo sĩ theo
các quy định và luật nội bộ của tôn giáo của mình. Theo báo cáo, việc bổ nhiệm
của họ không cần sự chấp thuận của các cơ quan chức năng nói chung. Tuy nhiên,
các cộng đồng được yêu cầu phải “đăng ký” các giáo sĩ được phong chức và thông
báo cho các cơ quan chức năng. Điều 22 của Pháp lệnh 21 đòi hỏi rằng những người được bổ
nhiệm phải là công dân Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, tinh thần đoàn kết
dân tộc và hòa hợp hòa giải.
Những
yêu cầu mơ hồ như vậy dường như quá quắt; và vai trò của Nhà nước không phải là
để can thiệp vào công việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo. Về việc bãi nhiệm
một chức sắc tôn giáo vốn ít khi xảy ra thì thường do các cộng đồng tôn giáo
quyết định, phù hợp với luật lệ tôn giáo của họ. Tuy nhiên, Báo cáo viên đặc biệt
cũng đã xem qua cáo buộc về sự can thiệp của Chính phủ trong một số trường hợp
các nhà sư bị buộc phải hoàn tục. Mặc dù ông không thiết lập được các chi tiết
cần thiết cho một sự đánh giá rõ ràng về từng trường hợp, ông vẫn tin rằng nếu
sự chọn lựa của cộng đồng tôn giáo bị hạn chế quá mức thì chắc chắn sẽ dẫn đến
nguy cơ cấu trúc của sự tự trị bị phá vỡ, có nghĩa là việc bổ nhiệm hoặc trục
xuất trong thực tế sẽ bị ảnh hưởng trầm trọng bởi các quyền lợi của Chính phủ.
Tuy nhiên, điều 6 (g) của Tuyên Ngôn của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc năm 1981
về việc xóa bỏ mọi hình thức không khoan dung và phân biệt đối xử dựa trên tôn
giáo hoặc tín ngưỡng đã bảo đảm một cách rõ ràng rằng quyền tự do "huấn
luyện, bổ nhiệm, đề cử hoặc chỉ định những người thích hợp để thừa kế chức vị
lãnh đạo đều phải dựa trên yêu cầu và tiêu chuẩn của bất luận tôn giáo hoặc tín
ngưỡng nào."
54/. Tình trạng
của Giáo Hội Công Giáo cho thấy một số đặc điểm vì việc phong chức giám mục
được thực hiện bởi Tòa Thánh, vốn là một "hệ thống quyền lực ngoại
quốc" có trụ sở bên ngoài Việt Nam. Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam tự xem
mình là một phần của giáo hội hoàn vũ. Dù vậy, việc bổ nhiệm và phong chức giám
mục đã gây ra một số tranh cãi. Mặc dù Việt Nam và Tòa Thánh vẫn chưa thiết lập
quan hệ ngoại giao chính thức, mối quan hệ của họ đã được cải thiện nhiều trong
những năm gần đây, và những phái đoàn cao cấp đã nhiều lần tiếp xúc với nhau,
trong đó có một cuộc gặp gỡ giữa Đức Giáo Hoàng và Thủ tướng Chính phủ vào
tháng 10 năm 2014. Trong khi chính phủ tiếp tục khẳng định quyền phủ quyết của
họ trong việc phong chức giám mục, theo như được báo cáo thì các giải pháp thực
dụng có thể được thương lượng.
D/. Các
vấn đề về bất động sản và đất đai
55/. Trong chuyến
viếng thăm này, nhiều vấn đề về bất động sản đã gây sự chú ý của Báo cáo viên
đặc biệt. Các vấn đề này được đưa ra không chỉ bởi những thành viên của các
cộng đồng không được công nhận, mà còn bởi đại diện của các cộng đồng được
chính thức công nhận và các thành viên của Mặt trận Tổ quốc. Trong số các khiếu
nại, có nhiều khiếu nại liên quan đến bất động sản và/hoặc đất đai. Vì lợi ích
của sự phát triển kinh tế và các dự án hiện đại hóa khác của quốc gia, một số
các cộng đồng tôn giáo đã bị mất hoặc có nguy cơ mất phần
...................
(10)/ Nghị quyết
36/55 của Đại Hội Đồng LHQ
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 12
lớn đất đai của họ, cùng với những nơi thờ
tự có giá trị lịch sử (11). Báo cáo viên đặc biệt đã nghe nhiều yêu cầu từ các
cộng đồng tôn giáo bao gồm cả một số cộng đồng đã được nhà nước công nhận, họ
muốn lấy lại tài sản và đất đai để được hoạt động một cách vẹn toàn.
56/. Việc tranh
chấp tài sản đòi hỏi phải có thông tin chính xác về các chi tiết phức tạp. Do
đó Báo cáo viên đặc biệt tự giới hạn trong một vài nhận xét chung. Sở hữu bất
động sản và đất đai là một trong những điều kiện tiên quyết cho sinh hoạt của
cộng đồng tôn giáo. Quyền sở hữu được thiết lập một cách rõ ràng là một yếu tố
quan trọng để xác định rằng các cộng đồng tôn giáo có được tự trị hay không.
Tại Việt Nam, tất cả đất đai được quản lý bởi nhà nước và không ai có thể sở
hữu đất đai. Sự kiện này tạo thêm một yếu tố bất ổn về mặt pháp lý cho các cộng
đồng tôn giáo kể cả các cộng đồng đã đăng ký chính thức vì nhà nước có thể lấy
lại đất đai bất cứ lúc nào. Ngoài ra, một số cộng đồng ví dụ như cộng đồng
người Chăm, vốn kết hợp Ấn Độ giáo và Hồi giáo, có một gắn bó văn hóa hay tôn
giáo mạnh mẽ với từng miếng đất cụ thể nào đó, ví dụ như những nơi chôn cất tổ
tiên của họ.
57/. Đại diện
Chính phủ công khai thừa nhận rằng có tranh chấp đất đai tại Việt Nam cũng như
ở nhiều nước khác.
Đồng thời, họ nghi
vấn rằng liệu những tranh chấp này có thể nào ảnh hưởng đến tự do tôn giáo tín
ngưỡng hay không. Tuy nhiên, ít nhất là trong một số trường hợp, các nhu cầu
tôn giáo rõ ràng đóng một vai trò quan trọng trong vấn đề tranh chấp đất đai.
Ví dụ như đại diện của các nhóm Tin Lành nói về các trường hợp ở vùng nông thôn
trong đó các Hội Thánh Tin lành khác nhau đã bị sáp nhập vào một Hội Thánh duy
nhất để việc "quản lý được dễ dàng hơn". Được biết việc sát nhập này
không phải luôn luôn được tiến hành với sự tôn trọng những đặc tính riêng biệt
của các giáo phái Tin Lành khác nhau và nhu cầu tôn giáo của các tín đồ thuộc
từng địa phương khác nhau. Lợi điểm trong việc điều hành và lợi lộc dùng đất
đai vào các mục đích kinh tế thường lấn áp quyền tự do tôn giáo của người dân.
58/. Các tranh
chấp về đất đai luôn luôn cần được giải quyết một cách tế nhị hầu đưa ra các
giải pháp có thể chấp nhận được cho tất cả các bên liên hệ. Chính phủ nhấn mạnh
rằng đất đai họ cung cấp cho các cộng đồng tôn giáo xử dụng được miễn thuế. Tuy
nhiên, việc thiếu các biện pháp pháp lý hữu hiệu như đã đề cập ở trên, đặc biệt
trong phạm vi tư pháp, cũng ảnh hưởng đến tình trạng tranh chấp đất đai liên quan
đến các cộng đồng tôn giáo. Trong những buổi nói chuyện với đại diện các cộng
đồng tôn giáo khác nhau, bao gồm cả các cộng đồng có hợp tác với Chính phủ
trong Mặt trận Tổ quốc, Báo cáo viên đặc biệt chú ý đến tâm lý mất tin tưởng
cao độ về các thủ tục pháp lý kém hiệu quả. Kết quả là một số các cộng đồng tôn
giáo cảm thấy họ hoàn toàn nằm trong tay của chính quyền địa phương.
V/.
Thực hành tôn giáo trong một số hoàn cảnh đặt biệt
A/. Đối
với tù nhân
59/. Như đã nói ở
trên, Điều 24 của Hiến pháp 2013 đề cập tất cả mọi con người chứ không chỉ nói
đến công dân mà thôi. Điều này bao gồm rằng cả các tù nhân, thậm chí ngay cả
khi họ tạm thời bị mất trọn vẹn quyền công dân, vẫn có quyền tự do tôn giáo hay
tín ngưỡng vốn là quyền phổ quát của con người. Khi thảo luận về vấn đề này,
Báo cáo viên đặc biệt đã nhận được thông tin mâu thuẫn. Các cơ quan Chính phủ
thường nhấn mạnh rằng tù nhân có thể thực hành tôn giáo của họ trong phạm vi
giam cầm của nhà tù nếu việc thực hành này không ảnh hưởng tiêu cực đến các tù
nhân khác và những hoạt động nói chung của đời sống nhà tù.
60/. Ngược lại,
một số người đã biết và có kinh nghiệm sống trong tù lại cáo buộc rằng các nhà
tù hầu như không cho phép hoạt động tôn giáo và cấm cả việc tiếp nhận và sở hữu
các sách hoặc tài liệu tôn giáo. Khi được hỏi về vấn đề này, một đại diện cao
cấp của Ủy ban Tôn giáo Chính phủ nói với Báo cáo viên đặc biệt là quyền tự do
tôn giáo hay tín ngưỡng của tù nhân cần được tôn trọng trong khi thừa nhận rằng
cho đến nay Ủy ban chưa đưa
.....................
(11)/ Thí Dụ: Vào
năm 2007 chính quyền Đà Nẵng công bố việc lấy đất của làng Cồn Dầu. Việc bồi
thường rất thấp, và giáo dân Cồn Dầu muốn được định cư gần nhà thờ bị khước từ
hai lần. Đến năm 2013, hàng trăm dân cư đã dọn ra trước sự đe doạ của chính
quyền hay sau khi nhà của họ đã bị giật sập. Sự việc này là một mối quan tâm vì
đã làm gián đoạn các sinh hoạt văn hoá và tôn giáo của người dân (xem
A/HRC/27/72. Vụ VNM 3/2014). Xin xem vụ việc xẩy ra tại Chùa Liên Trì
(A/HCR/28/85, vụ VNM 11/2014).
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 13
ra bất kỳ hướng dẫn nào cho các Ban quản
lý trại tù nhằm bảo đảm quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng của tù nhân được
bảo vệ một cách hữu hiệu.
61/. Ở Việt Nam
không hề có hệ thống các tuyên úy nhà tù gồm giáo sĩ của các tôn giáo khác nhau
phục vụ cho nhu cầu tinh thần của tù nhân theo yêu cầu của họ. Tuy nhiên, đại
diện Tăng Đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã giải thích rằng họ có thể phục vụ
trong các nhà tù, bao gồm các bài giảng để xây dựng các ý thức về xã hội và đạo
đức cho tù nhân. Dường như các linh mục Công giáo cũng thỉnh thoảng phục vụ nhu
cầu tôn giáo cho tù nhân. Các mục sư Tin Lành mà Báo cáo viên đặc biệt đã thảo
luận về vấn đề này cho biết là họ không thấy bất kỳ sự hỗ trợ tinh thần nào
dành cho tù nhân Tin Lành.
B/. Đối
với quân nhân
62/. Quân đội Việt
Nam không hề có một hệ thống tuyên úy quân đội thường xuyên phục vụ cho các nhu
cầu tôn giáo hay tâm linh của những người lính. Tuy nhiên, tương tự như tình
hình trong các nhà tù, Tăng Đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam dường như đã gia
tăng sự phục vụ cho các quân nhân. Báo cáo viên đặc biệt được cho biết rằng các
nhà sư thuộc Tăng Đoàn Phật giáo đã từng cầu nguyện cho những người lính phục
vụ đất nước trong những điều kiện phức tạp. Họ cũng dạy các kỹ thuật Thiền để
giúp những chiến binh chấp nhận dễ dàng hơn nhiệm vụ cũng như điều kiện sinh
sống khó khăn.
63/. Ở Việt Nam
người dân không có quyền từ chối nghĩa vụ quân sự và cũng không cho phép sự
chọn lựa phục vụ dân sự dành cho những quân nhân phản đối việc cầm súng vì lý
do lương tâm hay tôn giáo. Điều này đi ngược lại các quyền tự do tư tưởng, tự
do lương tâm và tự do tôn giáo hay tín ngưỡng quy định bởi Điều 18, khoản 3 của
Công ước Quốc tế, chống lại việc bị buộc phải hành động trái với tín ngưỡng tôn
giáo hay đạo đức (12).
VI/.
Báo cáo về vi phạm tự do tôn giáo, tín ngưỡng
64/. Báo cáo viên
đặc biệt đã nhận được những cáo buộc nghiêm trọng liên quan đến các vi phạm
quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam. Các vụ vi phạm được tường trình
thường do chính quyền địa phương ở cấp huyện, xã và cấp tỉnh gây ra, và do công
an, bao gồm các công an thuộc đơn vị 41/PA 38 vốn được giao nhiệm vụ giám sát
các vấn đề xã hội và "để phát hiện những người vi phạm tự do tôn giáo hoặc
tín ngưỡng" gây ra. Một số cuộc tấn công có tính cách bạo lực nhằm vào
những người vô tội và không có vũ khí, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em.
65/. Các vị Lãnh
đạo tinh thần của Phật Giáo, các sư và tăng ni của Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Thống Nhất (GHPGVNTN) đã bị theo dõi, bị gọi lên “làm việc” với công an (thẩm
vấn), bắt bớ và giam giữ tuỳ tiện, quản thúc tại nhà và bỏ tù dài hạn (13). Các
Phật tử bị cấm vào các chùa của Giáo hội, họ buộc phải ký vào một bản cam kết
là họ sẽ không tham gia Giáo hội; nếu không, họ có thể bị đuổi việc. Ngoài ra,
các cơ quan chức năng đã tuyên truyền chống lại Giáo hội. Các cơ sở giáo dục, y
tế và nơi thờ phượng trực thuộc các cộng đồng tôn giáo này đã bị chính quyền
tịch thu.
66/. Các cộng đồng
tôn giáo độc lập của Phật giáo Hòa Hảo luôn dùng hình thức phản đối ôn hòa, như
tuyệt thực, đã bị trừng phạt nghiêm khắc, kể cả việc họ bị giam giữ nhiều lần
hoặc lãnh án tù dài hạn (14). Công an và côn đồ được thuê mướn đã không ngần
ngại dùng vũ lực thật mạnh bạo trong khi bắt giữ hoặc tấn công các cộng đồng này
vì họ tổ chức các cuộc tụ họp để cầu nguyện tại những địa điểm được xây dựng để
dùng cho nhu cầu lễ lạy mà chính quyền gọi đó là những “ngôi tháp bất hợp
pháp”.
.............................
(12)/ Xin xem
A/HRC/7/10/Add.2, đoạn 46 và A/HRC/10/8/Add.4, đoạn 51
(13)/ Vào đầu
tháng Giêng 2014, thành viên của Ban Điều Hành GHPGVNTN đã bị công an sách
nhiễu và bị quản thúc tại Chùa. Công an đã ngăn cấm không cho Ban Điều Hành
mới được tổ chức Lễ Kỷ Niệm vào ngày
10-01-2014, đồng thời ngăn chặn các phật tử đến dự lễ. Nhiều vị lãnh đạo Gia
Đình Phật Tử bị đe doạ và bị quản thúc tại nhà (xem A/HRC/26/21, vụ VNM 2/2014)
(14)/ Xem một thí
dụ tại A/HRC/28/85, vụ VNM 10/2014
A/HRC/28/66/Add.2
TRANG 14
67/. Một số người
thuộc Phật giáo "Khmer Krom" đã phải đối diện với những khó khăn
tương tự trong việc xin phép tổ chức cầu nguyện, tang lễ hoặc trùng tu những
ngôi đền/chùa của họ, mặc dù họ đã được công nhận bởi Tăng Đoàn Giáo hội Phật
giáo Việt Nam. Theo báo cáo, họ đã bị phân biệt đối xử một cách có hệ thống và
nhiều người trong nhóm họ đã không được phép học hoặc giảng dạy bằng ngôn ngữ
dân tộc của họ. Sinh hoạt tôn giáo của họ bị kiểm soát chặt chẽ trên mọi phương
diện, và các nhà sư có nguy cơ bị ép hoàn tục nếu chính quyền biết được là họ
đã tiếp xúc với nước ngoài.
68/.
Không có một sinh hoạt tôn giáo nào của Đạo Cao Đài độc lập được nhà nước cho
phép vì chính Đạo Cao Đài bị coi là bất hợp pháp. Các tín đồ của Cao Đài gặp
khó khăn ngay cả khi họ sinh hoạt tôn giáo tại nhà mình.
Cũng giống như các
cộng đồng độc lập khác, họ đã bị ép buộc, bị sách nhiễu và bị tấn công. Các
nghi lễ của họ kể cả việc cử hành tang lễ thường bị theo dõi và bị ngăn cản.
Hơn nữa, họ luôn lo sợ mất việc làm và bị phân biệt đối xử trong các thủ tục
hành chính. Một số con cái của họ cũng đã phải đối diện với sự khó khăn ở
trường.
69/. Báo cáo viên
đặc biệt cũng đã nghe nói về cuộc đàn áp khắc nghiệt đối với những tín đồ của
các nhà thờ phái “Montagnard” (thiểu số Tây Nguyên), như là dân tộc thiểu số
Êđê. Hàng trăm nhà thờ của dân tộc thiểu số trong khu vực Tây Nguyên đã bị buộc
phải đóng cửa và mục sư của họ bị bắt và tống giam. Hàng ngàn người buộc phải
bỏ trốn ra khỏi nước hoặc lẩn trốn sau các cuộc biểu tình đòi quyền đất đai và
tự do tôn giáo. Những người bỏ chạy sang các nước láng giềng phải đối mặt với
nhiều trở ngại, và cuộc sống của họ tiếp tục bị đe doạ. Theo một báo cáo, vào
năm 2000, Chính phủ đã ban hành các văn bản hướng dẫn các viên chức địa phương
ngăn chặn sự phát triển của đạo Tin Lành.
70/. Theo thông
tin nhận được, mặc dù một số người Tin Lành Hmong đã được phép đăng ký với
Chính phủ để tiến hành các sinh hoạt tôn giáo, họ vẫn tiếp tục bị sách nhiễu và
vu khống. Các cơ quan chức năng bị cáo buộc đã tìm cớ để bắt giữ họ, đánh họ
tàn nhẫn trong trại giam và buộc họ phải từ bỏ đạo. Thậm chí đã có một trường
hợp được báo cáo là chết trong trại giam của Công an. Trong một số làng, quy
tắc đã được đề ra để trừng phạt những người cải đạo qua việc họ bị trục xuất
khỏi làng nơi đang cư ngụ. Họ cũng không được phép sở hữu kinh thánh in bằng
ngôn ngữ Hmong hay xử dụng ngôn ngữ địa phương để cử hành các sinh hoạt tôn
giáo.
71/. Những người
Hmong thuộc đức tin Dương Văn Minh cũng đã bị bắt giữ tùy tiện và bỏ tù, đánh
đập, tra tấn, giám sát liên tục, và ép từ bỏ đức tin của họ. Những ai không
chịu từ bỏ đức tin thì phải đối mặt với sự mất việc làm và mất cả những phúc
lợi xã hội dành cho dân tộc thiểu số. Theo báo cáo, 24 nhà chứa đồ vật tang lễ
của họ đã bị phá hủy vì bị cho là "không chân chính", có nghĩa là
không có giấy phép. Sự phá hủy này bao gồm cả sự tàn phá gần đây nhất vào tháng
10 năm 2014, sau chuyến thăm của Báo cáo viên đặc biệt. Chính phủ cũng đã bị
cáo buộc là thực hiện tuyên truyền chống lại cộng đồng này qua các phương tiện
truyền thông và công báo nội bộ của Chính phủ.
72/. Các cộng đồng
người Chăm đang đối mặt với nguy cơ mất đất đai, đặc biệt là các nghĩa trang
thiêng liêng chôn cất tổ tiên của họ đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Các dự án phát triển mới, trong đó có công trình xây dựng đường xá, đã không
tham khảo ý kiến của các cộng đồng người Chăm hoặc tôn trọng nhu cầu này của
cộng đồng trong việc di dời các ngôi mộ phải được cử hành với các nghi lễ
truyền thống thích hợp.
Theo báo cáo, do
việc phản kháng của cộng đồng trong việc di dời nghĩa trang, tất cả các nhà thờ
Hồi giáo bị đóng cửa trong tháng Ramadan và chỉ được mở cửa trở lại nếu họ đồng
ý với kế hoạch di dời nghĩa trang. Việc một số đền tháp của người Chăm bị biến
thành các địa điểm du lịch bị cộng đồng người Chăm xem là hoàn toàn không thích
hợp vì những nơi thờ cúng linh thiêng đó bị đóng cửa, không sinh hoạt được. Họ
cũng đã thất bại trong việc đăng ký cộng đồng của mình sau nhiều lần xin.
73/. Báo cáo viên
đặc biệt nghe nhiều vụ bắt giữ tùy tiện, hoặc quản thúc tại gia, và tạm giam
nhiều lần, gồm có những án tù dài hạn và quá nặng nề đối với những cá nhân
thuộc nhiều tôn giáo hay tín ngưỡng khác nhau chỉ vì họ vận động cho tự do tôn
giáo hoặc tham gia vào các hoạt động tôn giáo của họ. Thường họ bị buộc tội
theo Điều 258 của Bộ luật hình sự với lý do là "xúc phạm nền dân
chủ", "tham gia một phong trào ly khai" hay "xuyên tạc tình
hình và chỉ trích Chính phủ", chỉ vì họ thực thi quyền tự do tôn giáo hay
tín ngưỡng, tự do phát biểu và diễn đạt quan điểm, và tự do hội họp và lập hội
một cách ôn hòa. Báo cáo viên đặc biệt đã gặp Linh
A/HRC/28/66/Add.2
(Còn tiếp trang
15.)
50 năm sự kiện Huế-Mậu Thân: Ai chịu
trách nhiệm?
Báo Tiếng Dân 02/01/2018
FB Mạnh Kim. 2-1-2018.
(Tt BNS số 03).
Trong cuộc phỏng vấn ngày 20-5-2017 (*), Nguyễn Đắc Xuân kể: “Họ
lập ra một cái đoàn, gọi là “Đoàn sinh viên quyết tử”, mà tôi là trưởng cái
đoàn đó… Tôi tổ chức học quân sự, thành ra ba đại đội, làm thành một tiểu đoàn…
Thì trong cái đội đó, cái đoàn sinh viên quyết tử đó, chả bắn được ai, mà cũng
chả làm cái gì ai, nhưng nó gây ra một cái tinh thần sinh viên, mà dám vũ trang
để mà chống Mỹ, để mà chống Thiệu-Kỳ…”.
Dù không biết “Đoàn sinh viên quyết tử” của Nguyễn Đắc Xuân có
“bắn được ai” hoặc “làm gì ai” không, nhưng có điều chắc chắn rằng chiến dịch
Mậu Thân là một kịch bản được chuẩn bị chu đáo với những kế hoạch cụ thể và
phân công cá nhân cụ thể. Những bài báo miêu tả chi tiết “chiến công Mậu Thân”
đã thuật rõ điều này. Việc tiêu diệt cho bằng hết “ngụy quân, ngụy quyền” để
“xây dựng” một chính quyền mới sau “giải phóng” là một “chủ trương” của Ba
Đình. Như được Lê Duẩn phác thảo, Mậu Thân không chỉ là chiến dịch quân sự. Mục
tiêu lớn nhất là cướp chính quyền. Điều đó đã dẫn đến chiến dịch khủng bố và
cuối cùng đưa đến cuộc thảm sát. Giết ai và ai đi giết đã nằm trong kế hoạch
được soạn từ nhiều tuần hoặc nhiều tháng trước khi chiến dịch nổ ra. Việc Huế
bỗng đốt pháo nhiều hơn để người dân không phân biệt được tiếng súng với tiếng
pháo đã cho thấy kế hoạch được lên chi tiết như thế nào.
Ảnh: Tạp chí LIFE
Trong “Hue 1968: A Turning Point of the American War in Vietnam”
(ấn hành 2017), tác giả Mark Bowden đã ghi lại một phần trong danh sách 22
trang đánh máy (mà ông tìm được trong Kho lưu trữ quốc gia Hoa Kỳ), liệt kê các
mục tiêu cần “tiêu diệt”:
– Nhà thờ Phú Cam
– Khoa Luật Đại học Huế
– “Xa”, một cảnh sát Quảng Trị sống ở đường Thống Nhất gần giao
lộ chữ Y cách đường Lê Văn Duyệt vài căn
– “Soi”, trung sĩ nhất Sư đoàn 1 Bộ binh ngụy, ở đường Thống
Nhất, gần căn nhà bằng đá và tiệm may
– Cao Thọ Xá, ác ôn, dân Phú Ổ, làng Hương Chu, thị trấn Hương
Trà. Bỏ làng, về sống ở đường Thống Nhất gần cửa Chánh Tây. Đêm đêm, bọn chính
quyền từ các làng kế bên về nhà hắn đánh bài và ngủ lại
– Tiệm sửa đồng hồ đường Thống Nhất, đối diện xéo Phòng tuyển
quân. Bọn chính quyền từ các làng kế bên tụ tập về đây ngủ
– Hồ Thị Kim Loan, làm cho Cơ quan Phát triển Nông thôn. Nhà ở
đường Trịnh Minh Thế gần trạm xe bus Nguyễn Hoàng
– Nhà hàng Lạc Thành ở đường Đinh Bộ Lĩnh, bên ngoài cửa Thượng
Tứ. Bọn mật vụ và cảnh sát thường đến đây ăn uống
– Tiệm sửa radio ở số 3 đường Trần Hưng Đạo. Chủ là Tôn Thất Vũ,
con của Tôn Thất Kế, đảng viên Đại Việt…
Cầm danh sách trong tay, những “anh hùng ngã tắt”, như cách nói
của ông Phan Nhật Nam, đã tổ chức các cuộc lùng sục gieo rắc kinh hoàng. Những
kẻ “hối hả hưởng cho hết cái uy quyền què cụt trong giây lát” không chỉ là
những thanh niên “sớm giác ngộ” hoặc Việt Cộng nằm vùng. Có cả dân giang hồ.
Một trong những người như vậy là Mai Văn Ngụ, ở Thới Lai, vốn khét tiếng với
“nghề” ăn cướp; tống tiền; đâm thuê chém mướn. Từng xộ khám nên Ngụ hận thù
cảnh sát. Khi “giải phóng về”, Ngụ “lột xác”, đổi tên thành Mai Văn Hòa. Được
“cách mạng tin tưởng” giao nhiệm vụ, Ngụ hăm hở lập thành tích truy tìm những
kẻ “có nợ máu với nhân dân”, nhân tiện “xử” luôn những kẻ thù của mình, trong
chính quyền lẫn giới giang hồ. Trong vài vụ, đích thân Ngụ đứng xem cuộc hành
quyết ngay trước nhà nạn nhân… (sau sự kiện Mậu Thân, Ngụ trốn theo “quân giải
phóng” nhưng sau đó bị bắt và bị đày Côn Đảo; sau 1975, đương sự trở về Huế và
được xem như một “anh hùng cách mạng” – dẫn từ “Hue 1968”, Mark Bowden).
Vì “chỉ đạo ở trên” là tiêu diệt sạch chính quyền “cũ” để “giải
phóng hoàn toàn” Huế nên đã xảy ra các vụ bắt bớ tràn lan và giết chóc vô tội
vạ. Cứ là “thành phần ngụy quyền” thì bắt hoặc giết, bất luận có “ác ôn” hay
không. Trường hợp gia đình bà Nguyễn Công Minh là một ví dụ. Bà kể, lúc 2g sáng
sau Giao thừa, một nhóm Việt Cộng cầm AK đến gõ cửa. Bố bà sợ hãi kêu anh cùng
chú của bà lẻn cửa sau đi trốn. Việt Cộng đòi xem căn cước và hỏi bố bà làm gì.
Ông là phó quận trưởng quận Triệu Phong ở Quảng Trị, sắp nghỉ hưu. Sáng mùng
một, họ quay lại, dẫn ông đi “thẩm cung”. Sáng mùng hai, họ lại đưa ông đến
Trường tiểu học Vỹ Dạ để tra hỏi. Đến mùng ba, họ yêu cầu ông gói ghém đồ dùng
cá nhân và đi “học tập cải tạo 10 ngày”. Ông mất biệt từ đó.
Một năm sau, một Việt Cộng chiêu hồi khai với tỉnh trưởng Thừa
Thiên rằng ông ta tận mắt chứng kiến một cuộc thảm sát, tất cả đều bị chôn
sống, và ông biết chính xác hố chôn. Đến Xuân Ổ, người ta tìm thấy một hầm có 7
xác, tất cả đều bị trói và đều bể sọ. Việc tìm kiếm được mở rộng sang các vùng
lân cận. Mùa hè khô hanh chỉ toàn cát phủ nhưng cứ chỗ nào có cỏ tươi thì nơi
ấy có xác. Lên Phú Tứ, sau một tháng, tìm được thêm 250 xác. Hầu hết đều bị bể
đầu, trói cánh khuỷu, với tư thế quỳ và chết chụm vào nhau. Gia đình bà Minh
vẫn cố gắng tìm xác người thân. Tìm cho đến tháng 9-1979… Bố bà Minh bị bắt đi
đâu và bị giết ở đâu? Không ai biết.
Ai trực tiếp “chỉ đạo” và “duyệt” các kế hoạch “giải phóng” Huế?
Ai lên danh sách “tìm diệt” và tổ chức “tìm diệt”? Phải có một hoặc nhiều người
nào đó. Và (những) người đó phải là dân địa phương. Những thông tin này đã bị
giấu nhẹm. Những bài báo “ca ngợi chiến công” hoặc các hội thảo từ hàng chục
năm nay, mà mới nhất là “Hội thảo khoa học cấp quốc gia “Cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử”, tổ chức
ngày 29-12-2017, đã không bao giờ dám nhắc đến điều này. Bên cạnh sự hoan lạc
chiến thắng là một sự hèn hạ rợn người.
Ai chịu trách nhiệm lớn nhất với vai trò đầu não trong kế hoạch
“xóa sổ” toàn bộ hệ thống chính quyền địa phương để xây dựng chính quyền mới là
một bí ẩn lớn nhất của sự kiện Huế-Mậu Thân. Những bàn tay vấy máu đồng bào đã
vội vã được chùi. Những “chứng cứ ngoại phạm” hấp tấp được bày ra. Lê Khả
Phiêu, người mà hồi chiến dịch Mậu Thân là chính ủy kiêm trung đoàn trưởng
Trung đoàn 9, có trách nhiệm gì không?
Một bài báo mang tựa “Gặp lại cựu tổng bí thư Lê Khả Phiêu”
(Tiền Phong, 11-11-2012) có đoạn: “Đêm 24-2-1968, quân ta được lệnh rút khỏi
Huế. Khi rút phải đưa hết thương binh ở phẫu tiền phương lên rừng để tiếp tục
điều trị… Đồng chí (Lê Khả Phiêu) nhận trách nhiệm trước Quân khu rằng, không
riêng Trung đoàn 9 mà cần phối hợp với các trung đoàn bạn khác… cùng với nhân
dân thành nội Huế làm nhiệm vụ vận chuyển anh em thương binh vượt vòng vây lên
căn cứ. Chính sách thương binh là đây. Tình người, tình đồng chí đồng đội là
đây”… Ừ thì đây: một bài báo khác, đề tựa “N. Vietnamese Die Chained to Their
Gun Posts” của ký giả Fred Emery đăng trên Times of London ngày 16-2-1968, viết
rằng ông thấy hai thi thể lính Bắc Việt đã bị xích vào cột điện với khẩu súng
máy (“Hue 1968”, Mark Bowden).
Những câu chuyện bi thảm về chiến tranh Việt Nam đáng lý không
được nhắc lại. Nhưng, khi mà những oan hồn chiến tranh còn chưa được giải và
những bàn tay nhuốm máu còn chưa được rửa với sự thành khẩn ăn năn để chắp lạy
nén nhang trước vô số cái chết oan ức thì liệu mọi thứ có thể bỏ quên đi hoặc
để vùi lấp vào bụi lịch sử? Chúng ta sẽ nói gì với thế hệ trẻ, để giải thích
tại sao hôm nay cả thành Huế lại chít khăn tang để làm giỗ cho hàng trăm oan
hồn, trả lời sao với con cháu rằng lý do gì ông bà cha mẹ anh chị cô chú mình
bị giết và ai giết? Cho đến giờ, vẫn còn có màn vỗ tay cười cợt trước những dải
khăn tang.
Nếu người ta tiếp tục khạc nhổ những bãi đờm nhơ nhớp vào lịch
sử và giẫm đạp lên xác chết chiến tranh trong đó có cả chiến sĩ đồng đội mình
thì những câu chuyện này vẫn cần được nhắc lại, không phải để khinh bỉ, không
đáng và cũng chẳng cần, mà để cho thế hệ trẻ hiểu được cuộc chiến “giải phóng
dân tộc” nó đầy dãy tội ác như thế nào, để họ hiểu dối trá và bưng bít cũng là
một tội ác, và để họ nhận thức rằng những hành động kinh tởm đó đừng bao giờ được
lặp lại với đồng bào và dân tộc mình./.
MỤC LỤC BNS 04.
1/- Đức tin là
chìa khóa. Trang 01.
2/- Thánh-Thất
Cầu-Kho 1 Février 1927…. 06.
3/- Thảm trạng
quốc dân Việt Nam…. 07.
4/- Ngụ đời
03. … 09.
5/- Báo cáo của
Đặc phái viên LHQ về tự do tôn giáo. Tr 10.
6/- 50 năm sự kiện Huế-Mậu Thân: Ai
chịu trách nhiệm? tr 26.