Đảng CS VN lập ra chi phái 1997 và cho lập Ban Đại Diện thực hiện nhiệm vụ chính trị về tôn giáo.
Chi phái 1997 tuyên bố sang Mỹ để thực hiện nghị quyết 36 của ĐCS VN (25-11-2010).
(Đính kèm nguyên văn nghị quyết 36)
https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2021/07/3459-mach-co-chung-chi-phai-1997-sang.html#more
Bà Võ Kim Thoàn là phu nhân của ông Trần Quang Cảnh và nằm trong Ban Đại Diện của chi phái 1997 tại hải ngoại.
Bà Thoàn được chi phái 1997 phong chức sắc năm 2017.
Phút 14 bà Võ Kim Thoàn nhận huấn lịnh.
Bà Thoàn đang phụ trách Cao Đài TV để thực hiện nghị quyết 36 của ĐCS VN "CHÚC MỪNG NAM MỚI-2019".
BỘ CHÍNH TRỊ |
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM |
Số: 36-NQ/TW |
Hà Nội, ngày 26 tháng 03 năm 2004 |
NGHỊ QUYẾT
VỀ CÔNG TÁC ĐỐI VỚI NGƯỜI VIỆT NAM
Ở NƯỚC NGOÀI
I- TÌNH HÌNH VÀ CÔNG TÁC ĐỐI VỚI NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI THỜI
GIAN QUA
1- Hiện nay có khoảng 2,7 triệu
người Việt Nam đang sinh sống ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 80%
ở các nước công nghiệp phát triển, phần đông bà con ngày càng ổn định cuộc sống
và hòa nhập vào xã hội nơi cư trú, có vị trí nhất định trong đời sống kinh tế,
chính trị - xã hội ở nước sở tại, có tác động ở mức độ khác nhau tới mối quan
hệ giữa các nước đó với Việt Nam. Bên cạnh đó, trong những năm qua hàng trăm
nghìn người Việt Nam đã ra nước ngoài lao động, học tập, tu nghiệp, đoàn tụ gia
đình, hình thành các cộng đồng người Việt Nam tại một số địa bàn mới.
Cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài có tiềm lực kinh tế nhất định, có mối quan hệ với nhiều doanh nghiệp, tổ
chức kinh tế nước ngoài và quốc tế, có khả năng tìm kiếm đối tác và làm cầu nối
với các doanh nghiệp, tổ chức trong nước. Nhiều trí thức có trình độ học vấn và
chuyên môn cao; một số người giữ vị trí quan trọng trong các cơ quan, cơ sở
nghiên cứu, đào tạo, các công ty và tổ chức quốc tế, có khả năng tạo dựng quan
hệ với các cơ sở kinh tế, khoa học ở nước sở tại.
Mặc dù sống xa Tổ quốc, đồng bào
luôn nuôi dưỡng, phát huy tinh thần yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền
thống văn hóa và hướng về cội nguồn, dòng tộc, gắn bó với gia đình, quê hương.
Nhiều người đã có những đóng góp về tinh thần, vật chất và cả xương máu cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Thành tựu to lớn của nhân dân
ta trong sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữ vững sự ổn
định chính trị - xã hội và không ngừng nâng cao vị thế quốc tế của đất nước
càng củng cố thêm niềm tự hào dân tộc và tinh thần yêu nước của người Việt Nam
ở nước ngoài. Đông đảo bà con hoan nghênh công cuộc đổi mới và chính sách đại
đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước, mong muốn đất nước cường thịnh,
sánh vai với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới; nhiều người đã về
thăm gia đình, quê hương, tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh, hợp tác
khoa học, công nghệ, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, thể thao, nhân đạo, từ
thiện... Tình hình trên là xu thế chủ yếu trong cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài.
Tuy nhiên, người Việt Nam ở một số
nước còn khó khăn trong việc ổn định cuộc sống, chưa được hưởng quy chế rõ
ràng, thậm chí ở một số nơi còn bị kỳ thị. Một bộ phận đồng bào do chưa có dịp
về thăm đất nước để tận mắt thấy được những thành tựu của công cuộc đổi mới
hoặc do thành kiến, mặc cảm, nên chưa hiểu đúng về tình hình đất nước. Một số
ít người đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, ra sức chống phá đất nước, phá
hoại mối quan hệ hợp tác giữa nước sở tại với Việt Nam. Tính liên kết cộng
đồng, sự gắn bó giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng chưa cao. Còn thiếu các biện
pháp duy trì, phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc; việc giữ gìn
tiếng Việt và bản sắc dân tộc trong thế hệ trẻ còn khó khăn. Nhu cầu giao lưu
văn hóa giữa cộng đồng với đất nước, giữ gìn và phát triển tiếng Việt trong
cộng đồng là rất lớn và trở nên bức thiết song chưa được đáp ứng. Sự đóng góp
của bà con vào công cuộc xây dựng đất nước, nhất là về tri thức, chưa tương
xứng với tiềm năng của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài.
2- Đảng và Nhà nước ta luôn luôn
coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của
cộng đồng dân tộc Việt Nam, đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách rộng mở và
biện pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện ngày càng thuận lợi hơn cho đồng bào về
thăm đất nước, người thân, đầu tư, kinh doanh, hợp tác khoa học - công nghệ,
hoạt động văn hóa - nghệ thuật. Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã
được đổi mới và đạt được những kết quả đáng kể cả ở trong và ngoài nước. Công
tác thông tin, văn hóa phục vụ cộng đồng từng bước được tăng cường, nhất là
trong lĩnh vực phát thanh, truyền hình và qua mạng Internet. Sự phối hợp giữa
các cơ quan chức năng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chính quyền địa phương và các
cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đã có chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước đối với người Việt Nam ở nước ngoài chưa được quán
triệt sâu sắc, thực hiện đầy đủ. Công tác nghiên cứu, tham mưu về chính sách
chưa theo kịp những chuyển biến mới. Công tác bảo hộ quyền lợi chính đáng của
người Việt Nam ở nước ngoài chưa được quan tâm đúng mức. Các chính sách đã ban
hành chưa đồng bộ và chưa thể hiện đầy đủ tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc;
chưa khuyến khích mạnh mẽ người Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, đóng
góp cho công cuộc phát triển đất nước. Chưa có hình thức thỏa đáng để cung cấp
kịp thời và đầy đủ thông tin cho đồng bào về tình hình đất nước và chính sách
của Đảng và Nhà nước. Hình thức vận động cộng đồng còn chưa thực sự đổi mới, đa
dạng và linh hoạt để có thể quy tụ, động viên đông đảo bà con tham gia các hoạt
động có ích cho cộng đồng và quê hương. Việc phát hiện, bồi dưỡng những nhân tố
tích cực, việc khen thưởng, động viên những người có thành tích ít được chú
trọng.
Nguyên nhân chủ yếu của những yếu
kém trên là các cấp, các ngành, các đoàn thể nhân dân chưa nhận thức thật sự
đầy đủ và sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác đối với người Việt
Nam ở nước ngoài, nhiều cấp ủy đảng và lãnh đạo chính quyền các cấp chưa quan
tâm đúng mức và chưa thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện công tác này.
Sự phối hợp giữa các bộ, ngành liên quan, giữa Trung ương và địa phương, giữa
trong và ngoài nước còn thiếu chặt chẽ, các cơ quan trực tiếp làm công tác về
người Việt Nam ở nước ngoài chưa được kiện toàn đủ mạnh, kinh phí còn hạn chế.
II- CHỦ TRƯƠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG CÔNG TÁC ĐỐI VỚI NGƯỜI VIỆT NAM Ở
NƯỚC NGOÀI TRONG THỜI GIAN TỚI
1- Công tác đối với người Việt Nam
ở nước ngoài cần thể hiện đầy đủ truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc. Cơ sở
của sự đoàn kết là ý thức dân tộc và lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và mục
tiêu chung của mọi người Việt Nam là giữ vững nền độc lập dân tộc, thống nhất
của Tổ quốc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp;
xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng
tới tương lai. Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc
xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục
tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
2- Người Việt Nam ở nước ngoài là
bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là
nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta
với các nước. Nhà nước có trách nhiệm thỏa thuận với các nước hữu quan về khuôn
khổ pháp lý để đồng bào ổn định cuộc sống và bảo vệ quyền lợi chính đáng của
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài theo luật pháp, công ước và thông lệ quốc
tế.
Đảng và Nhà nước mong muốn, khuyến
khích người Việt Nam ở nước ngoài hội nhập và thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp
nước sở tại, chăm lo xây dựng cuộc sống, làm ăn thành đạt, nêu cao tinh thần tự
trọng và tự hào dân tộc, giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa và truyền thống
dân tộc Việt Nam, đoàn kết đùm bọc, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, giữ mối quan
hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác hữu
nghị giữa nước bà con sinh sống với nước nhà, tùy theo khả năng và điều kiện
của mỗi người góp phần xây dựng quê hương đất nước, chủ động đấu tranh với các
biểu hiện cố tình đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc.
3- Công tác đối với người Việt Nam
ở nước ngoài cần mang tính đồng bộ, kết hợp việc xây dựng cơ chế, chính sách
với công tác vận động, kết hợp các hoạt động trong nước với các hoạt động ở
nước ngoài và phải được tiến hành thông qua nhiều loại hình hoạt động và biện
pháp phù hợp với các đối tượng và địa bàn khác nhau, trên cơ sở tự nguyện và
không trái với pháp luật, phong tục, tập quán của nước sở tại.
4- Công tác đối với người Việt Nam
ở nước ngoài là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và của toàn dân. Các
tổ chức đảng, nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, các
ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương, ở trong nước và ngoài nước và toàn
dân ta cần coi đây là một nhiệm vụ quan trọng nhằm phát huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
III- NHIỆM VỤ CHỦ YẾU
1- Nhà nước tạo mọi điều kiện
thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, yên tâm làm ăn sinh sống, hội
nhập vào đời sống xã hội nước sở tại, đồng thời duy trì quan hệ gắn bó với quê
hương, đất nước.
Thông qua các hoạt động ngoại giao
tích cực vận động chính quyền nước sở tại tạo thuận lợi cho kiều bào có điều
kiện làm ăn sinh sống bình thường; chủ động tiến hành đàm phán và ký kết các
thỏa thuận cần thiết với các nước, trong đó có các hiệp định lãnh sự, hiệp định
tư pháp, bảo vệ lợi ích chính đáng của bà con, chống các biểu hiện kỳ thị, các
hành động chống lại người Việt Nam ở nước ngoài. Giải quyết nhanh chóng, thỏa
đáng yêu cầu của người Việt Nam ở nước ngoài liên quan đến vấn đề quốc tịch.
Tạo điều kiện thuận lợi để người
Việt Nam ở nước ngoài về thăm quê hương, thân nhân, thờ cúng tổ tiên. Cụ thể
hóa và hoàn thiện hơn nữa các quy định về xuất nhập cảnh, cư trú, đi lại ở
trong nước của người Việt Nam ở nước ngoài theo hướng thông thoáng, thuận tiện
và đơn giản thủ tục. Giải quyết thuận lợi, nhanh chóng thủ tục cho người Việt
Nam ở nước ngoài hồi hương hoặc về làm ăn, sinh sống có thời hạn ở trong nước;
tiếp tục giải quyết những vấn đề tồn tại về mua nhà ở trong nước, thừa kế, hôn
nhân gia đình, nhận con nuôi... liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài. Dành
cho người Việt Nam ở nước ngoài giá dịch vụ như công dân trong nước.
Có hình thức thích hợp tổ chức thu
thập ý kiến của đồng bào ở nước ngoài trước khi ban hành các văn bản pháp quy,
chính sách có liên quan nhiều tới người Việt Nam ở nước ngoài.
2- Hoàn chỉnh và xây dựng mới hệ
thống chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, phát huy sự đóng góp của trí
thức kiều bào vào công cuộc phát triển đất nước. Xây dựng chế độ đãi ngộ thỏa
đáng đối với những chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài có trình độ
chuyên môn cao, có khả năng tư vấn về quản lý, điều hành, chuyển giao công
nghệ, kỹ thuật cao cho đất nước, góp phần phát triển nền văn hóa, nghệ thuật
của nước nhà.
Xây dựng và hoàn thiện các chính
sách tạo thuận lợi và khuyến khích các ngành, các trung tâm nghiên cứu khoa học
- công nghệ, văn hóa nghệ thuật, giáo dục - đào tạo, y tế, thể dục - thể thao,
các cơ sở sản xuất, dịch vụ... ở trong nước mở rộng hợp tác, thu hút sử dụng
chuyên gia, trí thức người Việt Nam ở nước ngoài tham gia công việc ở trong
nước, làm việc cho các chương trình, dự án hợp tác đa phương và song phương của
Việt Nam với nước ngoài hoặc trong các tổ chức quốc tế có chỉ tiêu dành cho
người Việt Nam và tư vấn trong các quan hệ giữa Việt Nam với đối tác nước
ngoài.
Tranh thủ cộng đồng người Việt Nam
ở nước ngoài tiến hành hoạt động vận động, tư vấn về pháp lý trong quan hệ với
nước bà con làm ăn sinh sống.
3- Hoàn chỉnh và xây dựng mới các
chính sách thu hút người Việt Nam ở nước ngoài hoạt động đầu tư, kinh doanh ở
trong nước. Coi trọng các hình thức đầu tư, kinh doanh quy mô vừa và nhỏ do
người Việt Nam ở nước ngoài trực tiếp thực hiện hoặc thông qua người thân trong
nước thực hiện. Mở rộng và tạo thuận lợi hơn nữa chính sách kiều hối. Phát huy
khả năng của người Việt Nam ở nước ngoài làm dịch vụ, thiết lập và mở rộng kênh
tiêu thụ hàng hóa Việt Nam, các quan hệ hợp tác và đầu tư với các doanh nghiệp,
các tổ chức và cá nhân nước ngoài.
Thiết lập cơ chế phối hợp giữa các
cơ quan chức năng trong việc giải quyết các vụ việc liên quan đến doanh nghiệp
do người Việt Nam ở nước ngoài đầu tư vào trong nước, nhằm bảo vệ quyền lợi
chính đáng, hợp pháp của các doanh nghiệp, xử lý các vi phạm theo đúng pháp
luật, góp phần tạo môi trường pháp lý ổn định, làm cho người Việt Nam ở nước
ngoài đầu tư, hợp tác với trong nước yên tâm, tin tưởng.
4- Đổi mới và đa dạng hóa các
phương thức vận động, các hình thức tập hợp với mục đích đoàn kết người Việt
Nam ở nước ngoài quan tâm giúp đỡ lẫn nhau, khuyến khích những hoạt động hướng
về Tổ quốc của bà con, nhất là của thế hệ trẻ trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với
pháp luật và phong tục tập quán nước sở tại. Hỗ trợ các dự án của người Việt
Nam ở nước ngoài nhằm mục tiêu trên. Chủ động mở rộng tiếp xúc với cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài, kể cả với những người còn có định kiến, mặc cảm
với Nhà nước và chế độ ta.
5- Tích cực đầu tư cho chương
trình dạy và học tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài, nhất là cho thế hệ
trẻ. Xây dựng và hoàn chỉnh sách giáo khoa tiếng Việt cho kiều bào, cải tiến
các chương trình dạy tiếng Việt trên vô tuyến truyền hình, đài phát thanh và
qua mạng Internet. Cử giáo viên dạy tiếng Việt tới những nơi có thể để giúp bà
con học tiếng Việt. Tổ chức trại hè nói tiếng Việt cho thanh, thiếu niên người
Việt Nam ở nước ngoài.
Tổ chức cho các đoàn nghệ thuật,
nhất là các đoàn nghệ thuật dân tộc ra nước ngoài biểu diễn phục vụ cộng đồng.
Tạo điều kiện cho các nghệ sĩ, vận động viên là người Việt Nam ở nước ngoài về
nước biểu diễn, thi đấu, tham gia các đoàn Việt Nam đi biểu diễn và thi đấu
quốc tế. Thường xuyên tổ chức các chương trình giao lưu văn hóa, văn học, nghệ
thuật, triển lãm, hội thảo, du lịch về cội nguồn.
6- Đổi mới mạnh mẽ và toàn diện
công tác thông tin, tuyên truyền, giúp cho người Việt Nam ở nước ngoài hiểu
đúng tình hình đất nước và chính sách của Đảng và Nhà nước. Đầu tư cho các
chương trình dành cho người Việt Nam ở nước ngoài của đài phát thanh, truyền
hình và Internet; chú trọng đổi mới nội dung, hình thức và kỹ thuật của các
chương trình này. Hỗ trợ việc ra báo viết, mở đài phát thanh, truyền hình ở
ngoài nước. Xây dựng thư viện trên mạng Internet để phục vụ cho người Việt Nam
sống xa Tổ quốc. Hỗ trợ kinh phí vận chuyển và đơn giản hóa thủ tục đối với
việc gửi sách báo, văn hóa phẩm ra ngoài phục vụ cộng đồng.
7- Hoàn chỉnh chính sách khen
thưởng đối với người Việt Nam ở nước ngoài, đưa vào nền nếp việc khen thưởng
các tổ chức và cá nhân người Việt Nam ở nước ngoài có thành tích trong vận động
xây dựng cộng đồng, đóng góp xây dựng đất nước, tổ chức và cá nhân trong nước
có thành tích trong công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài. Giải quyết
có tình, có lý và trên cơ sở đạo lý Việt Nam các vấn đề nhân đạo do lịch sử để lại
nhằm thực hiện chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc, đồng thời có biện pháp phù
hợp đấu tranh với những biểu hiện cố tình đi ngược lại lợi ích dân tộc, phá
hoại quan hệ giữa các nước có đông người Việt Nam sinh sống với Việt Nam hoặc
gây chia rẽ trong cộng đồng người Việt Nam ở nước sở tại.
8- Các tổ chức đảng, các cơ quan
nhà nước ở Trung ương và địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức và
đoàn thể nhân dân theo chức năng, nhiệm vụ của mình tham gia tích cực vào công
tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa
Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài với các cơ quan hữu quan, với Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, giữa trong nước với ngoài nước. Củng cố
và phát triển các tổ chức xã hội làm công tác vận động người Việt Nam ở nước
ngoài, như Hội liên lạc với người Việt Nam ở nước ngoài, các hội thân nhân kiều
bào và các hình thức tập hợp chính đáng khác, phù hợp với ý nguyện và đặc điểm
của cộng đồng ở địa bàn cư trú.
Các cơ quan đại diện ngoại giao ở
nước ngoài có trách nhiệm coi công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài là
một nhiệm vụ chính trị quan trọng đẩy mạnh công tác bảo hộ công dân và bảo vệ
những quyền lợi chính đáng của người Việt Nam ở nước ngoài; tích cực, chủ động
tăng cường tiếp xúc vận động, tuyên truyền phổ biến chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước tới bà con.
9- Ủy ban về người Việt Nam ở nước
ngoài cần được kiện toàn với cơ cấu tổ chức, biên chế và phương tiện hoạt động
đáp ứng đòi hỏi của tình hình mới. Tăng cường cán bộ chuyên trách về công tác
đối với người Việt Nam ở nước ngoài tại cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở
những nơi có đông người Việt Nam sinh sống. Một số bộ, ngành và một số tỉnh,
thành phố có quan hệ nhiều với người Việt Nam ở nước ngoài cần có bộ phận giúp
cơ quan lãnh đạo trong công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Bổ sung
kinh phí cho công tác này.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao
phối hợp với Ban cán sự đảng ngoài nước và các ban, ngành liên quan, UBTƯ MTTQ
Việt Nam, các tổ chức và đoàn thể nhân dân tổ chức phổ biến rộng rãi nghị quyết
này đến cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân trong nước và đến cộng đồng
người Việt Nam ở nước ngoài.
2- Ban cán sự đảng Chính phủ cụ
thể hóa nội dung nghị quyết thành chương trình hành động, các cơ chế, chính
sách, chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương thực hiện.
3- Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự
đảng Chính phủ căn cứ vào nội dung nghị quyết, xây dựng và hoàn thiện các văn
bản pháp quy có liên quan đến người Việt Nam ở nước ngoài.
4- Các tỉnh ủy, thành ủy, các ban
cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương, các ban Trung ương Đảng
có kế hoạch thực hiện Nghị quyết. Ban cán sự đảng Bộ Ngoại giao chủ trì cùng
Ban cán sự đảng ngoài nước giúp Ban Bí thư và Bộ Chính trị theo dõi việc thực
hiện Nghị quyết. Ban Bí thư tổ chức kiểm tra, định kỳ nghe báo cáo về tình hình
và công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
|
TM. BỘ CHÍNH TRỊ |