BNS THÔNG LIÊN SỐ 09.
Việt Nam
Cộng Hòa.
Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia.
PHIẾU TRÌNH.
Trung Tướng Tổng Thư
Ký Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia
Công văn số 4/HP ngày
18-11-1965.
Đề mục
tham chiếu:
(Đơn dẫn thượng của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo Bến Tre đệ trình lên
cho Trung Tướng Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia và Thiếu Tướng Ủy Ban Hành Pháp Trung
ương xin minh xác Sắc luật 03/1965 ngày 13-7-1965 về việc thừa nhận tư cách
pháp nhân cho Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ và phản đối Hiến Chương ngày 21-01-1965 của
Tòa Thánh Tây Ninh soạn thảo theo Pháp Chánh Truyền và Tân Luật của Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ mà chánh phủ đã duyệt y).
SƠ LƯỢT VẤN ĐỀ.
Chiếu theo đơn đề ngày 18-11-1965 nói về Giáo Tông
Nguyễn Ngọc Tương , Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc cùng một số Chức Sắc đứng tên
trong Đơn Khai Đạo gởi cho Chánh Phủ Pháp năm 1926
Đơn Xin Khai Đạo đề ngày 23-8-1926 gởi cho ông Le Fol
Thống Đốc Nam Kỳ, tổng số đứng đơn có 247 vị, gồm cả Chức Sắc và Đạo Hữu. Đứng
đầu đơn là Đức Thượng Đầu Sư Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung) sau được phong
Giáo Tông và bà Nữ Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh. Ông Nguyễn Ngọc Tương lúc bấy
giờ là Thượng Chánh Phối Sư của Tòa Thánh Tây Ninh, trách nhiệm của Ông Tương
giữ về ngoại giao, nên được Hội Thánh phó thác nhiệm vụ giao tiếp với quyền
đời.
Còn việc đứng tên sở đất 96
ha, hiện giờ là Ông Tương với Bà Lâm Hương Thanh cùng chung thay mặt cho Hội
Thánh đứng tên.
Sở đất nói trên của Bà Lâm
Hương Thanh và Ông Nguyễn Ngọc Thơ (chồng bà) mua của một người Pháp hiến cho
Tòa Thánh để làm Thánh Địa kể từ năm 1927 đến nay. Ông Tương không có xuất một
đồng nào vào đó. Sở dĩ Ông thay mặt đứng tên vì Ông là Thượng Chánh Phối Sư của
Tòa Thánh Tây Ninh lúc đó.
Đến năm 1933
chẳng phải vì chánh kiến bất đồng và đường lối hành đạo hay là trong Đạo có chủ
trương hoạt động chánh trị mà Ông phải rời Tòa Thánh Tây Ninh để về Bến Tre.
MỤC
ĐÍCH CHÍNH CỦA ÔNG VỀ BẾN TRE
Là vì nhà cầm quyền thống
trị thực dân Pháp thấy Đạo Cao Đài càng ngày càng bành trướng mạnh, thực dân sợ
Cao Đài chủ trương liên kết với các nhóm cách mạng trong và ngoài nước để đạp
đổ chế độ thống trị.
Vì vậy thực dân Pháp thấy
cần làm cho lực lượng Cao-Đài suy yếu và Tòa Thánh bị giảm uy thế, nên xúi giục
Ông Tương và một vài người khác rời khỏi Tòa Thánh Tây Ninh để lập ra Chi phái
khác (vì Ông là quan lại cũ của Pháp).
Bởi vậy cho nên năm 1940
khi Pháp đóng cửa Tòa Thánh và các Thánh Thất thuộc về Tòa Thánh Tây Ninh trong
toàn quốc thì lúc đó Ban Chỉnh Đạo của Ông Tương vẫn bình yên và gần như được
thực dân Pháp nâng đỡ là khác.
Khi Ông Tương rời khỏi Tòa
Thánh Tây Ninh chiếu theo Pháp Chánh Truyền và Tân Luật, Ông Tương bị Hội Thánh
đưa ra Tòa Tam Giáo xử trục xuất ra khỏi cửa Đạo. Kể từ đó tên Nguyễn Ngọc
Tương không còn liên hệ chi với Tòa Thánh Tây Ninh.
Còn nói về Tòa
Thánh Tây Ninh bị đóng cửa mà Pháp gởi thơ cho Ông Tương hay, đó là điều chứng
minh Ông là người của thực dân Pháp. Còn việc mở cửa Tòa Thánh là do toàn thể
Chức Sắc, Chức Việc và Tín đồ của Tòa Thánh Tây Ninh tranh đấu đập tan chế độ
lệ thuộc, tự mở cửa Tòa Thánh và mở cửa cho các Thánh Thất, chớ không phải đặc
ân của Pháp mở cửa mà Pháp phải viết thơ cho Ông Tương hay, điều nầy thật sai
lầm.
VẤN
ĐỀ HIẾN CHƯƠNG
ĐẠI-ĐẠO
TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ.
Tòa Thánh Tây Ninh lập Bản
Hiến Chương này là chiếu theo Pháp Chánh Truyền mà Đức Chí Tôn ban cho hồi mới
khai đạo và Tân Luật do ba Chánh Phối Sư: Thái Thơ Thanh, Thượng Tương Thanh,
Ngọc Trang Thanh và được Đức Chí Tôn phê chuẩn.
Người Đạo
Cao Đài chân chính không một ai canh cải Pháp Chánh Truyền và Tân Luật, nên
Hiến Chương do Tòa Thánh Tây Ninh lập thành là một Hiến Chương căn bản của
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
Trong tờ trình của Tỉnh
Trưởng Kiến Hòa nói rằng: phái Ban Chỉnh Đạo có một triệu Tín Đồ và 200 cơ sở
trong toàn quốc, điều này sai sự thật. Số Tín đồ của Ban Chỉnh Đạo không quá
300.000 người, nhưng bây giờ tản mát cũng không biết chắc chắn là bao nhiêu,
nhứt là trong vùng xôi đậu.
Nhận xét:
Về khoản 1 của văn thư số 4 của Ban Chỉnh Đạo Bến Tre nói rằng:
“Chúng tôi không thể chịu ràng buộc theo Hiến Chương
của Hội Thánh Tây Ninh, đã được Chánh phủ duyệt y, thì Chánh phủ sẽ đối với
chúng tôi thế nào về Tư cách Pháp nhân ?”
Chiếu Hiến Chương ngày 21-01-1965 do Tòa Thánh Tây
Ninh soạn thảo, bản Hiến Chương này thể theo Pháp Chánh Truyền và Tân Luật lập
thành và đã được Chánh phủ duyệt y.
Hôm nay Ban Chỉnh Đạo không chịu nhìn
nhận Bản Hiến Chương là họ đi ngoài khuôn viên Luật Pháp chơn truyền của
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tức là cố tình gây rối trong tình trạng khẩn trương của
đất nước hiện nay.
Hơn nữa vừa rồi họ họp nhau kêu gọi hòa bình, hẳn
nhiên hành động này do bàn tay bí mật của đối phương xách động, mà chánh quyền
đã biết. Như vậy họ không đủ tư cách để hưởng lấy tư cách pháp nhân Đại-Đạo
Tam-Kỳ Phổ-Độ mà Trung Tướng Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia ký tên ban cho và câu hỏi
của họ rất khiếm lễ đối với Chánh quyền.
Về khoản 2 :
“Trong trường
hợp chờ Chánh phủ giải quyết các việc tạo mãi động sản và bất động sản của Đạo.
Chúng tôi có thể dùng Tư Cách Pháp Nhân Hội Thánh Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ do Đức
Giáo Tông đứng bộ được không ?”
Lưu ý: Đất Tòa Thánh Tây Ninh do Đức Giáo Tông
đứng Bộ.
Đáp: Ông Nguyễn Ngọc Tương nguyên là Thượng Chánh Phối Sư
của Tòa Thánh Tây Ninh đã tự ý rời khỏi Tòa Thánh Tây Ninh lập ra Ban Chỉnh Đạo
và đã bị Tòa Thánh Tây Ninh trục xuất ra khỏi Đạo từ năm 1933 như đã nói trên,
thì Ông không có dính líu gì đến đất đai của Tòa Thánh.
Hơn nữa, Chánh Phủ cũng không ban Tư Cách Pháp Nhân
cho Chi phái Ban Chỉnh Đạo thì Chi phái chỉ thi hành theo tư cách hiệp hội của
dụ số 10 mà thôi, thì làm gì có Tư Cách Pháp Nhân!
Câu hỏi nầy của Ban Chỉnh Đạo có tánh cách hăm dọa gây
rối cho Tòa Thánh Tây Ninh nói riêng, cho an ninh công cộng Quốc gia nói chung.
Đề nghị: Trong tình thế đất nước cực kỳ nghiêm trọng
nay, Chánh Phủ cần trọng tâm lo lợi ích chung cho Quân nhân và đối đầu với bọn
xâm lăng… không cần phải lưu tâm một sự đòi hỏi vô ý thức.
Kính.
Ngày 03 tháng 12 năm
1965.
Trung Tướng Nguyễn
Văn Thành.