Chú ý: Trung ngươn Ất Hợi Thầy và các Đắng ban Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo. ĐếnHhạ ngươn Ất Hợi có cuộc lễ KHAI THUYỀN BÁT NHÃ. Đây là cách thiêng liêng nhìn nhận Hội Thánh tại Tòa Thánh Tây Ninh là gốc của ĐAI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ. BBT Blog.
BẢN VI TÍNH & ẢNH CHỤP.
GIẢI THÍCH LỄ KHAI THUYỀN BÁT NHÃ
của Ngài Khai Pháp Hiệp Thiên Đài Trần Duy Nghĩa.
Chưởng Quản Cơ quan Phước Thiện tại Khách Đình ngày
13-10-Ất Hợi (1935).
Kình Đức Hộ Pháp.
Kính Hội Thánh Cửu Trùng Đài, các ban bộ nhạc và Tổng
Trạo, mấy em Nam, Nữ…
Hôm nay là ngày 13 tháng10 năm Ất Hợi nhằm ngày lễ kỷ
niệm Khai Đạo hằng niên, lại nữa là ngày khai thuyền Bát Nhã tại Khách Đình.
Bần Tăng dâng lịnh Đức Hộ Pháp để lời dẫn giải cho
nhân viên có trách nhiệm trọng yếu trong Bát Nhã Thuyền được rõ.
Lấy theo thể pháp, các con đây là nhơn viên của Đức
Phật Di Lạc, tượng trưng thể pháp nơi mặt thế nầy nương lấy khuôn thuyền bát
nhã trong thời kỳ hạ nguơn hầu mãn khởi đầu thượng nguơn tứ chuyển. Về hữu vi
tượng trưng đưa các người về Cực Lạc Thế Giới gọi là kiếp thoát trần. Mặt khác
về nhiệm mầu vô vi là cơ tận độ cầu rỗi cửu vị ức nguyên nhân qui hồi cựu vị
cùng các chơn hồn tiền vãng, hậu vãng và các chơn hồn vật loại đạt đến phẩm
nhơn loại, khi thoát xác được siêu thăng nơi thượng giới.
Tưởng lại phần đông thiên hạ đã có xem qua truyện Tây
Du. Đường Tam Tạng thỉnh kinh Đông Độ, ba thầy trò cùng đi gần tới Tây Phương
dựa mé sông Giang Hà, để bước trên chiếc Nại Hà Kiều rất lắc lư khó đi. Các trò
nhờ có phép hóa thân đều qua được, riêng Thầy Tam Tạng không biết làm sao qua,
đang lúc quanh quẩn tiến thoái lưỡng nan, bổng nhiên thấy có một người chèo
thuyền rồng đến, vừa thấy rõ là một chiếc thuyền không đáy mà nổi phao trên mặt
nước. Thầy Tam Tạng lấy làm lạ và ái ngại không biết mình bước xuống thuyền đó
được không, bao lần dụ dự không quyết định được, rốt cuộc Thầy Tam Tạng buộc
lòng để chân xuống thuyền. Vì còn mang xác phàm tục nên lúc ban sơ phải chịu
nhiều khó khăn, chinh nghiêng mất thăng bằng.
Tuy nhiên thinh thoảng sự bình tỉnh vững vàng trợ lực
như bao người quanh cảnh. Thầy Tam Tạng trực nhìn xuống dòng sông thấy một xác
chết trôi qua bèn than rằng: “Nơi đây gần đến nước Phật mà còn có người chết
trôi sông như thế”. Tôn Ngộ Không liền đáp rằng: “Ấy là cái xác của Thầy đó
vậy, bởi vì công tu luyện đến ngày công viên quả mãn nên cõi xác trần thoát
kiếp. Vì ở đây trần thế mang xác phàm hữu hình tức hữu hoại và nhờ đó mà phân
biệt được phàm thánh trong khi đã đắc Đạo”.
Thuyền rồng không đáy vừa nói trên Phật Giáo gọi
là Thuyền Bát Nhã, người chèo Phật danh là Tiếp Dẫn Đạo Nhơn.
Thuyền Bát Nhã có là do một búp sen của Đức Phật Tổ
nơi Cực Lạc Thế Giới, Đức Phật dùng tinh ba của tam muội hỏa mà biến thành, ấy
là Bí Pháp nhà Phật, hai chữ Bát Nhã Phật Tông nguyên lý giải trong kinh gọi là
trí huệ để mở mang sự sáng suốt cho các bực tu chơn cũng ám chỉ là thuyền từ để
đưa người thoát tục.
Trải qua bao kỷ nguyên, người tu đắc Đạo cũng nương
lấy Bát Nhã Thuyền do nhiệm mầu Thiêng Liêng mà về nước Phật hay đến cõi hư vô
tịch duyệt.
Thuở hổn độn sau khi trời đất phân thứ rồi mà chưa có
loài người, Đức Diêu Trì Kim Mẫu, Minh Sư gọi là Lão Mẫu, vâng lịnh Đức Thượng
Đế nhóm hội triều đại hội nơi Kim Bàn phỏng định cho 100 ức nguyên nhân xuống
trần, dùng Ngọc Lô Kim Bàn trụ các nguyên nhân cho xuống thế lập đời. Trước khi
ấy Đức Lão Mẫu tức Diêu Trì Kim Mẫu kêu toàn cả linh căn chơn tánh dự Hội Yến
Bàn Đào và ban cho mỗi vị một cái túi Vạn Bửu Nan trong đó có 8 món báu là:
Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sĩ và căn dặn khi xuống trần nếu rủi mất
một món là về không được.
Lão Mẫu dùng Bát Nhã Thuyền chở toàn linh căn và 8 món
báu đưa xuống thế lập đời. Có bài kệ rằng:
Linh
căn ngày đó xuống trần ai,
Các
Bậc vui mừng nhập mẫu thai.
Vì
mất bửu nang mê nghiệp trái,
Làm
sao tín đặng trở hồi lai.
Bên kia có một vị Đại Tiên hiệu là Cù Tán Đởm hay là
Kim Quan Sứ, thấy Phật Mẫu đưa chơn linh xuống trần thì ông cũng theo xuống
trần và có dẫn theo 5 chơn linh Quỉ Vị biến thành:
1. Kim
là tiền bạc
2. Mộc
là sắc đẹp
3. Thủy
là rượu ngọt
4. Hỏa
là sự nóng giận
5. Thổ
là nha phiến
Mỗi chơn linh Quỉ vị biến ra 5 mùi vị khác nhau làm
cho các nguyên căn sa mê mà quên cả Bát Bửu Nang.
Nên con người lớn lên thấy tiền thì ham, thấy sắc lịch
thì mê, thấy rượu ngọt thì ưa mà nó giục bày ra muôn ngàn sự khoái lạc nơi trần
khổ chẳng xiết, nên các linh căn vì lưu luyến hồng trần, vui say mùi vị thế
gian mà quên hẳn nguồn cội cho nên Thánh nhân ra đời lập tam Giáo Đạo cũng qui
tụ căn bản trong 8 món báu ấy để tỉnh giấc.
Phật Giáo dạy: Phải trọn Tam Qui, Ngũ Giới.
Tiên Giáo dạy: Phải trọn Tam Nguơn, Ngũ Hành.
Thánh Giáo dạy: Phải trọn Tam Cang, Ngũ Thường.
Để thức tỉnh linh căn nhớ nguồn cội 8 món ấy mà về, ai
được may duyên sớm ngộ Đạo mới lên Bát Nhã Thuyền mà trở về cựu vị, đúng như
bài thi của Đức Chí Tôn dạy rằng:
Thi:
Khuôn
thuyền Bát Nhã chẳng hề chìm,
Nổi
quá như bông, nặng quá kim .
Có
Đạo trăm muôn ngồi cũng đủ,
Vô
duyên một đứa cũng là chìm.
THỜI KỲ THÁNH ĐỨC
Sơ khai Long Hoa Đại Hội, Đức Di Lạc kiếp tiên vị mang
danh là Hoàng Cự Chủ Nhơn lãnh lịnh Lão Mẫu tức Diêu Trì Kim Mẫu hay là
Thiên Hậu.
Buổi ngày làm chủ thuyền Bát Nhã cho các Nguyên Nhân
xuống thế, lần đầu 24 chuyến thuyền, hai lần sau mỗi lần 6 chuyến tức là 36
chuyến thuyền, đúng như quyển kinh thứ nhứt và thứ nhì của Ngọc Lộ Kim Bàn. Đây
là Nguơn Thánh Đức gọi là Nhứt Kỳ Phổ Độ.
1. Là Giáo Chủ Đạo Phật Đức Nhiên Đăng Cổ Phật.
2. Là Giáo Chủ Đạo Tiên Đức Thái Thượng Nguơn Thỉ hay
Lão Quân.
3. Là Giáo Chủ Thánh Đạo Đức Văn Tuyên Đế Quân.
Các vị Giáo Chủ đã sáng lập khai nền Đạo, lập thành
qui điều luật pháp, an ninh trật tự cho nhơn loại tiến bước trên con đường tu
tỉnh, Đức Chí Tôn Ngài mới dạy khai Long Hoa Đại Hội Nhứt Kỳ nên có câu:
Sơ Hội Long Hoa Thanh Dương Đại Hội Nhiên Đăng Cổ Phật
Chưởng Giáo Thiên Tôn. Đức Nhiên Đăng làm chủ hội điểm Đạo chỉ có 6 ức
nguyên nhân đắc Đạo.
Nhị Kỳ Phổ Độ, thời kỳ văn minh tiến hóa từ ấy mới nổi
danh trong Tam Giáo.
1.Phật thì có Thích Ca làm Giáo Chủ.
2.Tiên thì có Đức Lão Tử làm Giáo Chủ.
3.Thánh thì có Đức Khổng Phu Tử làm Giáo Chủ.
Sau 511 năm Ngài cho Đức Chúa Jesus giáng sanh cũng
thời Nhị Kỳ, sau lại lập thành luật pháp qui điều Ngài mới khai Long Hoa Nhị Kỳ
Phổ Độ có câu:
Nhị Hội Long Hoa Hồng Dương Đại Hội, Di Đà Cổ Phật
Chưởng Giáo Thiên Tôn. Trước khi Đức Di Đà làm chủ hội điểm Đạo được 2 ức đoạt
Pháp, phần nhiều là môn đồ của Lão Tử đắc Đạo.
Còn 92 ức nguyên nhân luống chịu đọa trần đến thời kỳ
Hạ Nguơn mạt kiếp tức là thời kỳ qui cổ chính mình Đức Chí Tôn giáng trần dùng
huyền diệu cơ bút. Tam Trấn Oai Nghiêm thay cho Tam Giáo lập Đạo vô vi không
hình thể như trước gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
1.Đức Phật Quan Âm Chưởng Quản về Phật giáo
2.Đức Lý Thái Bạch Đại Tiên Chưởng Quản về Tiên Giáo
3. Đức Quan Thánh Đế Quân Chưởng Quản về Thánh Giáo
Gọi là Nho Tông chuyển thế.
Nhơn kỳ Hạ Nguơn nầy, do cơ bút mà biết các nguyên
nhân đắc Đạo trong 2 kỳ trước được 8 ức, nay đến tình nguyện nơi Ngọc Hư Cung
giáng trần, chịu mạng lịnh nơi Đức Di Lạc Vương Phật lo cứu rỗi 92 ức nguyên
nhân còn say đắm nơi cõi trần.
Bây giờ nhắc lại Thể Pháp cuộc chèo thuyền, phận sự
của nhân viên trong thuyền gồm có : Tổng Lái, Tổng Mũi, Tổng Thương, Tổng Khậu
và 12 Bá Trạo.
Tổng Lái: là là chơn linh
Xích Hắc Tinh ở Thượng Giới theo Thể Pháp, còn Bí Pháp là chơn khí của Hộ Pháp;
Tổng Lái tượng trưng cho Bát Quái Đài.
Tổng Mũi: là chơn linh của
Bạch Hổ Tinh ở Thượng Giới theo Thể Pháp còn Bí Pháp là chơn khí của Thượng
Phẩm; Tổng Mũi tượng trưng cho Hiệp Thiên Đài.
Tổng Thương: là chơn linh của
Huỳnh Long Tinh ở Thượng Giới theo Thể Pháp, còn Bí Pháp là chơn khí của Thượng
Sanh; Tổng Thương tượng trưng cho Cửu Trùng Đài.
Tổng Khậu: tượng trưng nhơn
sanh tức là chơn hồn của chúng ta, ta thấy tánh tình của Tổng Khậu vô chừng vui
buồn chẳng định. Vả chăng trong thời kỳ biến chuyển loạn lạc phải chịu dưới
phép sai khiến của lục dục thất tình, vì danh lợi tự đem mình đến chỗ trụy lạc,
vì vật chất xa hoa quyến rũ.
Còn 12 Bá Trạo: con số 12 là Bí
Pháp là số riêng của Đức Chí Tôn, Ngài nắm Thập Nhị Khai Thiên nơi tay tức là
Thập Nhị Thời Thần nơi Bạch Ngọc Kinh; còn Thể Pháp là Thập Nhị Thời Thần thuộc
Hiệp Thiên Đài mà chúng ta đã biết trong cửa Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Vậy 12 Bá
Trạo để tượng trưng cho địa chi: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân,
Dậu, Tuất, Hợi mà biến tướng càn khôn thế giái làm cho rộng lớn thêm lên. Vũ
trụ bao la Đức Chí Tôn là chúa tể càn khôn vũ trụ hóa sanh vạn vật cầm quyền
Thiêng Liêng cũng như hữu hình.
Với lòng đại từ đại bi chẳng nở ngồi nhìn con cái của
Thầy phải chịu trầm luân khổ hải nên Ngài dụng Bí Pháp định cho tam vị Thần
xuống thế, tượng trưng Thể Pháp là Tổng Lái, Tổng Mũi, Tổng Thương lái vững
khuôn Thuyền Bát Nhã để dẫn các chơn linh Nguyên Nhân, Hóa Nhân, Quỉ Nhân và
các chơn hồn tức là trong chúng sanh dầu siêu lạc nơi nào cũng tìm rước về hội
ngộ cùng Thầy trong thời kỳ Hạ Nguơn Tứ Chuyển là thời kỳ đại ân xá kỳ ba.
Chính mình Đức Chí Tôn là Ngọc Hoàng Thượng Đế dùng
huyền diệu cơ bút lập Đạo Cao Đài tại nước Việt Nam, qui Tam Giáo, hiệp Ngũ Chi
tạo đời Thánh Đức, dùng Nho Tông chuyển thế với chủ nghĩa đại đồng để tận độ
chúng sanh trên quả địa cầu 68 nầy qui hồi cựu vị. Chẳng phân biệt màu da sắc
tóc, giống nòi chủng tộc.
KẾT LUẬN
Trong nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, dùng Thuyền Bát Nhã
với Bí Pháp huyền diệu Thiêng Liêng thì Đức Di Lạc Vương Phật vâng lịnh Đức Chí
Tôn làm chủ Thuyền Bát Nhã đặng khai Long Hoa Đại Hội Kỳ Ba.
Nay là Tam Hội Long Hoa Bạch Dương Đại Hội Di Lạc
Vương Cổ Phật Chưởng Giáo Thiên Tôn.
Đức Ngài làm chủ Thuyền Bát Nhã rước các bậc Nguyên
Nhân từ Thập Điện Diêm Cung, Thất Thập Nhị Địa Giới hay là U Minh Giới, đại Địa
Ngục.
Đức Phật ngự nơi thuyền kêu gọi toàn linh căn chơn
tánh Cửu Vị Ức Nguyên Nhân hãy mau tỉnh mộng về cửa nầy nương theo Bát Nhã
Thuyền trở về Lôi Âm Tự Bạch Ngọc Kinh mà hội ngộ cùng Thầy.
Còn về Thể pháp, Đức Hộ Pháp vâng lịnh Đức Diêu Trì
Kim Mẫu thọ mạng cùng Đức Chí Tôn tạo Thuyền Bát Nhã tại mặt thế gian nầy là
tượng trưng Thể pháp độ dẫn Bát Phẩm Chơn Hồn từ vật chất hồn, thảo mộc hồn,
thú cầm hồn, nhơn hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn đều do Kim Bàn Phật Mẫu
vận chuyển hóa ra Bát Đẳng chơn hồn cũng như trong kinh Phật Mẫu vậy:
Trung
khổ hải độ thuyền Bát Nhã,
Phước
từ bi giải quả trừ căn,
Huờn
hồn chuyển đọa vi thăng,
Cửu
Tiên hồi phục Kim Bàn Chưởng Âm.
Theo nghĩa 4 câu kinh là Thuyền Bát Nhã tượng trưng
nơi thế nầy để rước xác tục đưa qua khỏi bến sông mê bể khổ trần ai.
Huờn hồn phục sanh siêu thăng nơi miền Thánh Vức.
Tòa Thánh ngày 13 tháng 10 Ất Hợi.
(Dl 12-11-1935)
Khai Pháp Hiệp Thiên Đài
TRẦN DUY NGHĨA