Trang

Thứ Bảy, 20 tháng 3, 2021

3404. VI BẰNG 14/96. PHÂN TÍCH BÀI THÁNH NGÔN ĐẠI TỪ PHỤ TRỞ PHÁP & NGỌC HƯ CUNG CHUYỂN PHÁP...

 


HTE ĐĐTKPĐ
VB: 14/96

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Cửu Thập Lục Niên
TÒA THÁNH TÂY NINH.

 

VI BẰNG

Tóm lược cuộc họp 14/96.

Chủ đề: BA HỘI LẬP QUYỀN VẠN LINH.

Bài thảo luận: Bài số 2. Đàn cơ ngày 12-2-1933 (29-12-Quí Dậu) tại Phạm Môn, Tây Ninh (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q 2): Đại Từ Phụ trở pháp, Ngọc Hư Cung chuyển pháp, sửa cải Pháp Chơn Truyền.


1/- Thời gian và thành phần tham dự.

1.1/- Thời gian

 Lúc 19g30, thứ Hai ngày 18/01 Tân sửu (DL: 01/03/2021).

1.2/- Tham dự:

Trưởng Ban Chấp Hành CTS Võ Văn Quang.

Ban Kiểm Soát Luật

CTS Nguyễn Hữu Khanh

Người điều hành: Trần Quốc Tiến.

Các thành viên: Chánh Trị Sự Võ Văn Lực, Chánh Trị Sự Nguyễn Thị Hương, Chánh Trị Sự Lương Thị Nở, Phó Trị Sự Lê Văn Một, Thông Sự Nguyễn Thị Thu Hà (Ngân Hà), Huỳnh On (Quan Minh), Dương Xuân Lương (John Tùng), Ngọc Bích, Trương Văn Mai, Võ Lệ Dung (Mari Dung, Nguyễn Thị Vân, Nguyễn Hồng Phượng (Mãi Mãi).

2/- Thông qua Vi bằng cuộc họp 13/96.

  -Thông qua Vi bằng 13/96

3/- Chia sẻ Đạo sự các địa phương

   - Các thành viên HTE đồng ý cố gắng mua bảo hiểm cho bản thân và gia đình. Đây là sự tiến bộ của xã hội về phương diện; thể hiện sự tương thân tương ái, người không bị bênh chia sẻ khó khăn với người bị bệnh, về sự phòng xa khi mình có bị bệnh cũng giảm gánh nặng tài chánh cho gia đình và đồng đạo. Ngoại trừ Trưởng Ban Chấp Hành và CTS Nguyễn Thị Hương (HTE ĐĐTKPĐ tôn trọng sự riêng tư của cá nhân).

   - HTE Cử một đại diện và thành viên tham dự lớp học giáo lý do TT Mountain View tổ chức. Học vào lúc 8 giờ đến 9 giờ sáng thứ hai hàng tuần (giờ VN).

  - Đại diện HTE:  CTS Trần Quốc Tiến. Các thành viên khác CTS Lương Thị Nở, TS Nguyễn Thị Thu Hà, Nguyễn Thị Chợ, Nguyễn Hồng Phượng

4/- Phân tích bài số 2.

Phải hiểu bối cảnh lịch sử đạo taị thời điểm bài thánh giáo ra đời mới hiểu được phần nào ý tứ sâu xa trong đó.

/- Năm 1930 lập ra Sáu Đạo Nghị Định, ấn định quyền hành chức sắc trong hành chánh, lập ra các cấp hành chánh.

/- Đức Lý Giáo Tông ban quyền Giáo Tông phần xác cho Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt (Đạo Nghị Định thứ hai).

/- Ban Hành Pháp Chánh Truyền Chú Giải tháng 4-1931.

/- Hội Nhơn Sanh nhóm lần đầu tiên tháng 11-1931.

/- Đức Chí Tôn dạy về ý nghĩa của Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh, tháng 12-1931.

/- Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo có năm ẤT HỢI 1935

/- Các chi phái tách ra khỏi Tòa Thánh Tây Ninh và một số chức sắc Hiệp Thiên Đài cũng không trọn tin vào Quyền Chí Tôn tại thế trong cơ trở pháp và chuyển pháp.

Chia ra làm 2 phần: một: Bà Bát Nương; hai: Bà Lục Nương.

4.1/ Phần một Bà Bát Nương Diêu Trì Cung.

Phần nầy có hai phần văn vần và văn xuôi.

Phần văn vần:

Mầng nhau vì thấy giúp nên nhau,

Mầng Đạo từ đây đẹp vẻ màu.

Mầng xác chí linh thêm mãnh lực,

Mầng thần chơn-lý đặng danh cao.

Mầng duyên nhân loại đường tu vững,

Mầng phước nguyên-hồn chẳng chút hao.

Mầng Đạo từ nay nâng thế giới,

Mầng nền chánh-giáo trở thanh-cao.

Về hình thức. Đây là bài Đường thi. Đường thi là thể thơ hoàn chỉnh vào đời nhà Đường (Trung Hoa). Đường thi có hai loại thất ngôn bát cú (bảy chữ tám câu) và thất ngôn tứ tuyệt (bảy chữ 4 câu). Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có rất nhiều bài Đường thi.

Một bài thất ngôn bát cú luôn luôn có 4 phần: đề, thực (hay trạng), luận và kết. Bố cục bài Đường thi như là một bức tranh bằng chữ khi tả cảnh, tả tình, vịnh sử hay trình bày một vấn đề…

Câu 1&2: gọi là đề. Câu một là phá đề (hay mở bài) phát họa bối cảnh hay khung cảnh. Câu hai là thừa đề, nối ý câu phá đề để xác định sự việc hay tình huống.

Câu 3&4: gọi là thực hay trạng. Đây là phần giải thích hay làm rõ đầu bài. Nghĩa là chọn điểm nhấn cho cảnh vật hay điểm uốn của hoàn cảnh, sự tình ra giải bày hay công đức của nhân vật… (tự thân toát ra). Thực là thực chất, thực sự, trạng thái thật sự, thực trạng.

Câu 5&6: gọi là luận. Là bàn bạc việc của đầu bài như thế nào; cảnh dó xinh đẹp thế nào, nếu là tình tự thì cung bậc cảm xúc, nhân vật lịch sử thì đáng khen hay đáng chê trách hoặc so sánh với cảnh khác, người khác, việc khác theo đạo lý, luân lý, lịch sử. Luận là bàn luận với một chủ thể khác một hoàn cảnh khác, một khúc quanh khác. Nếu là một nhân vật cũng có thể là bàn luận về chính nhân vật đó trong khúc quanh nhân vật đo thăng hoa hay sa ngã.

Câu 7&8: gọi là kết. Tóm lại ý nghĩa cả bài, thể hiện sự cảm nhận về tác dụng và ý nghĩa của nó với cá nhân hay xã hội trong hiện tại lẫn tương lai…

Bài Thánh ngôn của Bà Bát Nương là thất ngôn bát cú. hai chữ đầu tiên (Mừng nhau) là đều là vần bằng nên là bài luật bằng, vần bằng.

Về nội dung. Muốn hiểu đúng nội dung phải nhờ vào đoạn văn xuôi bên dưới.

Câu 1&2: Mầng nhau vì thấy giúp nên nhau,
Mầng Đạo từ đây đẹp vẻ màu.

Câu 1: phá đề hay mở bài. Cho biết mừng nhau vì có sự giúp nhau, đến câu 2 mới nói rõ mừng việc đạo. Đạo có Hiệp Thiên và Cửu Trùng hỗ trợ nhau để làm nên cho đài mình và giúp nhau. Cá nhân giúp cá nhân, cá nhân giúp cho đài mình, hai đài giúp nhau. Đạo Cao Đài hữu hình đi liền với vô vi nên cũng bao hàm ý rằng các Đấng phò trợ cho nhân sự hành đạo. Gắn hai câu nầy vào hoàn cảnh đạo lúc đó (1933) là Thầy đã dạy về Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh và Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt sắp đăng tiên để Đức Hộ Pháp cầm quyền Chí Tôn tại thế xây dựng thể pháp căn bản cho nền đạo.

Đặc biệt là sắp ban cho TÂN KINH CHUYỂN PHÁP (Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo). Chuyển Sinh Lão Bịnh Tử thời nhị kỳ phổ độ sang Luân Chuyển Hóa Sanh của tam kỳ. Chuyển pháp của thời Nhị Kỳ sang tùng thị Pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ tất đắc giải thoát. Pháp điều của Tam Kỳ Phổ Độ là gì? Lòng sớ Tân Cố và Tuần cửu viết: Tùng thị pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ lập công bồi đức…. Đức Hộ Pháp dạy: lập công, lập đức và lập ngôn (tam lập). Tam lập là Tam diệu tam bồ đề.

Các Đấng thọ lịnh Bát Quái Đài sắp sửa ban kinh cho Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ (1935).

Pháp Chánh Truyền chú giải phẩm Chưởng pháp: "Chính Thầy đã giáng cơ nói: Ngọc Hư Cung bác luật, Lôi Âm Tự phá cổ; ấy vậy Cựu Luật thì Ngọc Hư Cung đã biếm bác, còn Cổ Pháp thì Lôi Âm Tự đã phá tiêu, vậy thì ngày nay Cựu Luật và Cổ Pháp chẳng còn ý vị chi hết. Những bực tu hành mà tưởng lầm phải tùng Cựu Luật hay là Cổ Pháp thì trái hẳn với Thiên Điều của ĐĐTKPĐ thể Thiên hành chánh.

Cựu luật đã chuyển sang Tân Luật (1927).

Cổ pháp đã phá tiêu nên ban TÂN PHÁP là Pháp Chánh Truyền, ban Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo là chuyển pháp trọn vẹn. Bởi vì không có Tân Kinh thì Cửu Trùng Đài không có pháp để đem ơn phước của Bát Quái Đài đến cho nhơn sanh, ấy là Cửu Trùng Đài yểm quyền Bát Quái Đài (xem PCTCG phần Chánh Phối Sư).

Chú ý về thời gian: bài thi dạy vào ngày 29 tháng chạp (không có ngày 30) nên là ngày cuối cùng của năm Quí Dậu (1933), theo phong tục của Việt Nam đó là ngày sum họp, ngày vui để mừng năm đã qua và đón mừng năm mới. Theo luật đạo là ngày rước Chư Thần Thánh Tiên Phật dáo tân niên và đàn cơ thường diễn ra vào ban đêm. Vậy thì có nhiều khả năng bài thánh ngôn này là đêm giao thừa.

Câu: Em an dạ, từ đây đã quan-kiến sự kết-cuộc của Chí-Tôn đã định trước... thể hiện Bà đã được Đức Chí Tôn dạy rõ về cách lập pháp và trở pháp trong nền đạo từ A đến Z.

Câu 3&4: Mầng xác chí linh thêm mãnh lực,
Mầng thần chơn-lý đặng danh cao

Xác chí linh: Cửu Trùng Đài được thêm sức mạnh, bởi vì đến năm 1935 thì các Đấng ban cho Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo cho Cửu Trùng Đài có phương tiện hành pháp.

Thần chân lý là: Hiệp Thiên Đài làm cho tỏ rạng mối chơn truyền.

Cặp thực hay trạng là điểm nhấn tự thân hai đài toát ra

Câu 5&6: Mầng duyên nhân loại đường tu vững,

Mầng phước nguyên-hồn chẳng chút hao.

Hiệp Thiên và Cửu Trùng làm tròn phận sự: Giáo hóa và luật pháp giúp cho nhân loại êm bước trên đường tu và các bậc nguyên nhân làm tròn sứ mạng khi lãnh lịnh Đức Chí Tôn khi đến thế gian khai sang mối đạo.

Cặp luận là bàn rộng ra bối cảnh bên ngoài.

Câu 7&8: Mầng Đạo từ nay nâng thế giới,
Mầng nền chánh-giáo trở thanh-cao.

Theo sự trở pháp của Đức Chí Tôn thì Cửu Trùng Đài sẽ cầm số mạng của nhơn loại và có Phước Thiện (của Hiệp Thiên Đài) trợ giúp để nền đạo tự lực tự cường, mới tự chủ theo triết lý Quốc Đạo.

Trong sự quan kiến của Bà Bát Nương thì nhờ sự trở pháp nền đạo có đủ tài mguyên và môi trường để xây dựng nền văn minh mới.

4.2/- Lục Nương Diêu Trì Cung.

Phần của Bà Lục Nương có bài văn xuôi trước sau đó mới có bài thi. Bài thi là của Đức Phật Mẫu mà Bà thuật lại, Bà cũng cho biết thêm cả Cung Diêu Trì đều đổ lụy nghĩa là có rất nhiều Đấng góp phần vào đàn cơ nầy. Cũng như Đức Quan Âm cậy bà báo tin cho hai vị khác.

Phần văn xuôi có đề cập đến: Cả Thiên-thơ hủy phá, sửa-cải Pháp Chơn-Truyền. Vậy Pháp Chơn Truyền là gì? Thiển nghĩ Pháp Chơn Truyền có trong thiên thơ như Hành Chánh Đạo, Chánh Trị Đạo, Phước Thiện… và nhiều cơ quan khác xuất phát từ thiên thơ… mà Đức Hộ Pháp đã báo trước vào năm 1951 khi trả lời Ngài Truyền Trạng Phạm Ngọc Trấn, Chơn Nhơn Trịnh Phong Cương và Hội Thánh đăng lại trong Bán Nguyệt San Thông Tin số 77 (10-06-1973).

Pháp Chơn Truyền là một tập hợp lớn, Pháp Chánh Truyền là một tập hơp con (một phần) của Pháp Chơn Truyền. Pháp Chánh Truyền thiên về hành chánh tôn giáo cấm sửa đổi còn Pháp Chơn Truyền đã được Chí Tôn cải sửa. Chơn truyền của thời Nhị Kỳ Phổ Độ khác với chơn truyền buổi Tam Kỳ Phổ Độ. Kinh Đại Tường 1935: Hỗn Ngươn Thiên dưới quyền Giáo chủ, Di Lặc đương thâu thủ phổ duyên. Tái sanh sửa dổi chơn truyền, Khai cơ tận độ cửu tuyền diệt vong…

Trở pháp và chuyển pháp đi liền nhau, Có trở pháp mới có chuyển pháp trong Đại-Đao Tam-Kỳ Phổ-Độ cũng như trong cả thời Nhị Kỳ Phổ Độ và Tam Kỳ Phổ Độ. Bài nầy chúng ta chú trọng đến sự trở pháp và chuyển pháp trong nền đạo.

(Lưu ý rằng trong Pháp Chánh Truyền Chú Giải phần Chánh Phối Sư Đức Lý Giáo Tông có nhắc đến Hội Thánh Chơn Truyền: Mừng thay cho nhơn loại chút ít rồi. Hội Thánh Chơn Truyền Tân Pháp đã đạt đặng như…..).

Bài thi:

Vú mẹ chưa lìa đám trẻ con,

Độ sanh chưa rõ phận vuông tròn.

Quyền cao Ngự-Mã là vinh bấy,

Phận mỏng Hiệp-Thiên biết giữ còn.

Lợt điểm Thánh tâm trần-tục khảo,

Vẻ tươi bợn thế nét dò-đon.

Thà xưa ví bẵng nay gìn vậy,

 Lòng mẹ ngại-ngùng con hởi con!

Về hình thức đây là bài thi Đường. Hai chữ đầu tiên đều là vần trắc nên luật trắc và vần trắc.

Bên trên có câu: Em an dạ, từ đây đã quan-kiến sự kết-cuộc của Chí-Tôn đã định trước…. là các Đấng đã nhìn thấy tiền đồ tốt đẹp của đạo do trở pháp. Trong cuộc vận hành để trở pháp sẽ có nhiều con cái của Phật Mẫu không hiểu, không theo kịp sự biến chuyển của trở pháp mà sanh ra nghịc lẫn nhau rồi dẫn đến lập ra chi phái.

Bài thi trên của bà Bát Nương vui mừng chung cho nền đạo thì bài thi của Phật Mẫu là cả một sự xót xa riêng cho con cái của người. Bài trên là mừng vui còn bài của Phật Mẫu là lời than thống thiết ai bi cho số phận những con cái không đủ may duyên để hiểu. Bà Lục Nương thố lộ: nhưng vì cái mừng ấy mà làm cho Người đổ-lụy ngâm bài than.

Câu 1&2: Vú mẹ chưa lìa đám trẻ con,

Độ sanh chưa rõ phận vuông tròn.

Chí Tôn giao cho Phật Mẫu độ rỗi con cái của Ngài mà Phật Mẫu dạy dỗ chưa đặng bao lâu, chưa được thỏa lòng thì có sự trở pháp. Chư Thần Thánh Tiên Phật còn ngạc nhiên thì con cái của Người khó lòng mà hiểu đặng bổn phận, khó lòng mà biết được sự chuyển pháp ấy có ý nghĩa như thế nào trên bước đường phổ độ chúng sanh. Chữ độ sanh trong câu 2 là độ cả chúng sanh trong khi sống và khi chết. Như câu kinh Tùng theo Chơn pháp độ lần chúng sanh.

Câu 3&4: Quyền cao Ngự-Mã là vinh bấy,

Phận mỏng Hiệp-Thiên biết giữ còn.

Trong khi trở pháp Đức Hộ Pháp sẽ nắm Quyền Chí Tôn tại thế nên rất nhiều con cái của Phật Mẫu không hiểu và không trọn tin gây ra sự ngang trái cho chính mình và cho nền đạo. Sau khi Đức Quyền Giáo Tông đăng tiên thì hơn một nữa số nhân sự và Thánh Thất tách ra lập chi phái. Nhiều vị chức sắc cao cấp của Hiệp Thiên Đài cũng không trọn tin vào Đức Hộ Pháp.

Câu 5&6: Lợt điểm Thánh tâm trần-tục khảo,

Vẻ tươi bợn thế nét dò-đon.

Trong việc trở pháp phải giữ thánh tâm là ý chí thanh cao, nhìn vào đại nghiêp đạo còn như so bì địa vị đắn đo quyền lợi riêng tư của bản thân hay gia đình sẽ bị trần tục kéo đi ra khỏi đường đạo. Nhưng mấy ai can đảm thú nhận sự thật là do sự so hơn tính thiệt về quyền lợi, địa vị của bản thân hay của gia đình, sự chọn lựa con đường phế đời hành đạo hay chùng bước hành đạo để lo cho đạo nhơn luân rồi dùng những lý do khác để che dấu sự thật hầu biện minh cho việc xa rời chánh giáo trong thời chuyển pháp.

Câu 7&8: Thà xưa ví bẵng nay gìn vậy,

 Lòng mẹ ngại-ngùng con hởi con!

Sự thử thách quá khắc nghiệt, Phật Mẫu đã thấy tiền trình của nhiều con cái bị khảo đến nước phải than thở như thế. Đoạn văn xuôi bên dưới cho biết thêm không phải chỉ mình Mẹ khóc mà cả Cung Diêu Trì đều đổ lụy.

Nhị Ca trong bài là Đức Hộ Pháp. Đức Hộ Pháp nắm thiên điều tại thế nên Bà muốn Đức Hộ Pháp hiểu lòng Phật Mẫu hiểu lòng cả Cung Diêu Trì mà xoay sở trong cơ trở pháp.  

Chính Đức Chí Tôn cũng than rằng:

Con khổ mà Cha sướng đặng nào,

Ai từng cắt ruột lại không đau.

Chia quyền những sợ quyền chia lại,

Muốn liệng cho xa mảnh đế bào.

Tóm lại bài thi là tâm tình thương yêu của người Mẹ thiêng liêng dối với con cái trong buổi chuyển pháp rất khó khăn. Nước mắt của Mẹ lăn dài nhưng kết cuộc cũng sẽ tốt đẹp.

5/- Kết thúc cuộc họp lúc 22 giờ.

Viết tóm lược: Thư ký Nguyễn Hồng Phượng.

Công nhận Vi bằng.

 Ban Kiểm Soát Luật.

CTS: Nguyễn Hữu Khanh

Trưởng Ban Chấp Hành.

CTS: Võ Văn Quang.

 

 

 

NGUYÊN VĂN BÀI THÁNH NGÔN.

                                                                                         Bài số 2.

Tây Ninh (Phạm-Môn) 12 Février 1933 (29-12 Quí-Dậu)

BÁT NƯƠNG
Mầng nhau vì thấy giúp nên nhau,
Mầng Đạo từ đây đẹp vẻ màu.
Mầng xác chí-linh thêm mãnh-lực,
Mầng thần chơn-lý đặng danh cao.
Mầng duyên nhân-loại đường tu vững,
Mầng phước nguyên-hồn chẳng chút hao.
Mầng Đạo từ nay nâng thế-giới,
Mầng nền chánh-giáo trở thanh-cao.

Em an dạ, từ đây đã quan-kiến sự kết-cuộc của Chí-Tôn đã định trước. Em nhớ lại, khi Ngọc-Hư định cho Hiệp-Thiên-Đài cầm số-mạng nhơn-sanh, lập thành chánh-giáo, thì Đại-Từ-Phụ lại trở pháp, giao quyền ấy cho Cửu-Trùng-Đài. Cả Ngọc-Hư Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều ngạc-nhiên sự lạ. Đại-Từ-Phụ phổ-giáo rằng: Hay, hay không lẽ để phận hèn, ngày sau sẽ rõ thánh-ý Người quyết liệu.

LỤC NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG

Em chào mấy anh, em đương ở Ngự Quan-Cung, Bát-Nương đến cho hay rằng mấy anh đương ngưỡng nghĩa, nên vội-vã đến hầu. Khi mơi nầy em đặng tin lành: Ngọc-Hư lo chuyển pháp. Cả Thiên-thơ hủy phá, sửa-cải pháp chơn-truyền. Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật vui mừng chẳng xiết, Diêu-Trì Từ-Mẫu đẹp dạ không cùng, nhưng vì cái mừng ấy mà làm cho Người đổ-lụy ngâm bài than nầy:

Vú mẹ chưa lìa đám trẻ con,
Độ sanh chưa rõ phận vuông tròn.
Quyền cao Ngự-Mã là vinh bấy,
Phận mỏng Hiệp-Thiên biết giữ còn.
Lợt điểm Thánh tâm trần-tục khảo,
Vẻ tươi bợn thế nét dò-đon.
Thà xưa ví bẵng nay gìn vậy,
Lòng mẹ ngại-ngùng con hởi con!

Nhị-Ca ôi! Bài thi làm cho cả cung Diêu-Trì đều đổ lụy. Mấy anh nên lấy nó làm phép hằng tâm, thì bước vinh-diệu thiêng-liêng không lạc nẻo.  Anh Qu... Th..., lịnh Quan-Âm dạy anh ẩn-nhẫn, đợi Người lo giúp.
        Thăng

(Hết)