Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ (ĐĐTKPĐ) gọi tắt là Đạo Cao-Đài do Đức Chí Tôn
dùng cơ bút lập thành. Lễ Khai Đạo tổ chức tại Chùa Gò Kén, làng Long Thành tỉnh
Tây Ninh năm 1926.
Cơ bút là phương tiện của nhân loại dùng để liên lạc với thế giới vô
hình. ĐĐTKPĐ ra đời để làm nhân chứng rằng thế giới vô hình kề cận để giúp nhân
loại xây dựng xã hội hòa bình, dân chủ, tự do. Tự thân ĐĐTKPĐ có 02 vế: hữu
hình và vô hình hiệp lại. Nhà nước cộng sản Việt Nam muốn tiêu diệt ĐĐTKPĐ ở cả
02 phần. Tại sao nhà nước Việt Nam muốn tiêu diệt Đạo Cao Đài?
Bởi vì từ
lời dạy của các Đấng thiêng liêng ĐĐTKPĐ chủ trương
dùng công lý đánh đổ cường quyền. Dùng đạo đức làm căn bản để xây dựng con người và xã hội. Đạo thực hiện 05
phương án: gia cư, mưu sinh, giáo huấn, kiến thiết và tôn giáo để nâng cao dân
đức, dân trí, dân sinh. Đạo nâng đở người nghèo khó có cuộc sống ấm no, nâng đở
người ít học thành người có hiểu biết. Châu Thành Thánh Địa vốn là vùng đất
nghèo thổ nhưỡng nên thực dân Pháp chê bỏ. Đạo đã xây dựng thành nơi trù phú.
Thành tựu kinh tế nhìn thấy được là: Tây Ninh đứng đầu cả miền Nam Việt Nam vể
sản xuất tinh bột mì để xuất khẩu. Cư dân nơi Châu Thành Thánh Địa sống trong
nếp văn hóa tương thân tương ái, có tinh thần chị ngã em nâng, chia vui sớt
nhọc với nhau. Nếp văn hóa tốt đẹp từ một tỉnh lẻ được nhân rộng ra. Nhà nước
Việt Nam nhìn thấy hành tàng của đạo trái ngược với chủ nghĩa cộng sản nên muốn
tiêu diệt đạo Cao Đài ...
PHẦN MỘT: Nhà nước
tiêu diệt phần thiêng liêng của đạo (muốn đứng trên cơ bút).
Nhân sự là yếu tố quyết định cho mọi tổ chức. Từ lúc khai sinh ĐĐTKPĐ
đã qui định việc phong thưởng nhân sự phải qua cơ bút; việc điều chuyển nhân sự
tôn giáo là do quyền Hội thánh. Sau khi cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam nhà nước
cộng sản muốn kiểm soát nhân sự của ĐĐTKPĐ.
Ngày 20-9-1977 Việt Nam được kết nạp vào Liên Hiệp
Quốc. Ngày 11-11-1977 Chánh Phủ Việt Nam ra bản
Nghị Quyết số 297 về chánh sách đối với tôn giáo, qui định nơi khoản 3 phần b
như sau:
“Việc phong chức bổ nhiệm những người
hoạt động tôn giáo (kể cả những người do tín đồ bầu cử) phải được chánh quyền
chấp nhận trước tùy theo phạm vi hoạt động tôn giáo của những người nầy trong
một xã, huyện, tỉnh hoặc thành phố chấp thuận phạm vi hoạt động tôn giáo bao
gồm nhiều tỉnh thì phải do Thủ Tướng quyết định”.
Rõ
ràng là nhà nước Việt Nam muốn đưa nhân sự của họ xen vào tôn giáo Cao Đài và
dùng những người được cài vào phá hoại tôn giáo. Cho nên Hội thánh Cao Đài nhận
định:
Nghị quyết số 297 của Hội Đồng Chánh Phủ là một sợi dây xích
thằng trói buộc Đạo Cao Đài một cách chặc chẽ, không phương cựa quậy. Xưa nay
việc cầu phong, cầu thăng cho Chức Sắc phải do cơ bút quyền Thiêng Liêng quyết
định mà nay lại phải do chánh quyền chấp thuận trước như vậy thì Đạo Cao Đài
mất hết ý nghĩa Thiêng Liêng của nó mà trở thành một tổ chức của phàm trần …
Hội thánh Cao Đài nhận định
rõ ràng âm mưu khống chế và cài người vào tôn giáo nên đi đến quyết định:
Ngưng
các cuộc cầu phong và cầu thăng để giử giá trị thiêng liêng cao quí của phẩm
tước Chức Sắc Thiên Phong không chịu đặt Đạo Cao Đài do Thượng Đế lập thành
dưới quyền của phàm tục.
Như vậy ý đồ làm mất giá trị của cơ bút,
làm mất giá trị thiêng liêng của đạo Cao Đài bằng cách cài người để kiểm soát
nhân sự trong tôn giáo của nhà nước Việt Nam đã bị thất bại. Do vậy nhà nước
chuyển sang giai đoạn đánh vào bộ máy hành chánh tôn giáo, đánh vào phần hữu
hình của tôn giáo.
PHẦN
HAI. Nhà nước tiêu diệt phần hữu hình của đạo.
Nhà nước tiêu diệt phần hữu hình của đạo
qua 02 giai đoạn.
A/-
GIAI ĐOẠN 01: Thu hẹp, khoanh vùng hoạt động tôn giáo để đạo tự tan rã.
I/-
Bản án Cao Đài (dội bom lần thứ nhất).
Ngày 20-7-1978 Mặt Trận Tổ Quốc Tỉnh Tây
Ninh ban hành “Bản án Hoạt Động Phản Cách Mạng Của Một Số Tên Phản Động
Trong Giới Cầm Đầu Giáo Phái Cao Đài Tây Ninh” gọi tắt là Bản án Cao Đài.
Về
pháp lý: Bản án không do
Tòa án ban hành, không có phiên tòa, Mặt Trận Tổ Quốc Tỉnh Tây Ninh ban hành,
không có ai ký tên. Chính quyền bắt mọi người phải học tập. Ai không đồng ý thì
bị bỏ tù. Cảnh thương khó của Đức Chúa Jésu bắt đầu từ phiên tòa của Pontius Pilatus (Bôn-xơ Phi-lát)
thì cảnh thương khó của Đạo Cao Đài bắt đầu từ bản án Cao Đài.
Về
nội dung: xin tóm lược vài
điểm chính. Đạo Cao Đài ra đời để làm
tay sai cho thực dân Phápà Làm tay sai cho cho Phát xít Nhật (1936-1945), phối hợp đắc lực với Nhật trong
cuộc đảo chánh Pháp ở Đông Dương ngày 9-3-1945 à làm tay sai cho thực dân Pháp (1946-1955) chính Phạm
Công Tắc triển khai đóng đồn bót, càn quét gom Tín đồ lập các Châu Vi Đạo thực
hiện kế hoạch chống cách mạng, phản bội tổ quốc trắng trợn à Làm tay sai
cho Đế quốc Mỹ và Ngụy quyền miền Nam (1956-1975) à Thời kỳ
30-4-1975, vẫn tiếp tục lén lút hoạt động phản cách mạng, rãi truyền
đơn, giết hại cán bộ … Hội Thánh, giữ tín đồ ở lại xung quanh Toà Thánh chống
chánh sách, phân bổ lại lao động và xây dựng lại vùng Kinh tế mới của nhà nước.
à hệ thống hành chánh tôn giáo là nhà nước trá hình, hệ
tư tưởng Cao Đài là phản động, tài sản, dinh thự, các cơ sở kinh doanh của Hội
Thánh là tài sản của đế quốc đã rút chạy để lại, cần phải tịch thu.
II/-
Quyết nghị ngày 13. 12. 1978 (dội bom lần thứ hai hay thi hành Bản án Cao Đài).
Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh báo cáo về bản án Cao
Đài và Hội Đồng Nhân Dân trong phiên họp kỳ 6 khóa I ngày 13 tháng 12 năm 1978
Quyết nghị. Điều III: giải tán và
nghiêm cấm hoạt động hệ thống tổ chức hành chính đạo từ trên đến cơ sở, xóa bỏ
và nghiêm cấm cơ bút, chính quyền sẻ quản lý toàn bộ cơ sở vật chất mà đạo đang
quản lý kinh doanh không thuộc chức năng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích xã hội
… Điều V: Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh chịu
trách nhiệm tổ chức chỉ đạo thực hiện thắng lợi nghị quyết này và báo cáo kết
quả lên cấp trên và Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh trong kỳ họp tới. Link.
Hội Thánh Cao Đài nhận định: Nếu thi hành nghiêm chỉnh bản quyết nghị nầy thì Hội
Thánh Cao Đài kể như không còn nữa, nhưng nếu đột ngột giải tán một lần cả hệ
thống tổ chức hành chánh Đạo thì ắc có sự giao động không hay cho cả xã hội. Cho nên Hội Thánh lập ra Đạo
Lịnh 01 ngày 01. 03. 1979. Theo đó lập ra Hội Đồng Chưởng Quản và hành chánh
tôn giáo 02 cấp để điều hành đạo sự.
III/- Quyết định số 124 quản lý tài sản
tôn giáo.
Ngày
04 tháng 6 năm 1980 Ủy Ban Nhân Dân
Tỉnh Tây Ninh ra quyết định số 124. Theo Điều 2: Nội Ô Tòa Thánh chỉ còn Đền
Thánh, Hậu điện, Đông lang, Tây lang. Đền Thờ Phật Mẫu, Hậu điện Báo Ân Từ và
nhà lễ viện Báo Ân Từ. Giáo Tông Đường. Hộ Pháp Đường. Trai đường hành chánh. Mỗi
Thánh Thất, Đền Thờ Phật Mẫu chỉ để lại từ 01 đến 03 người… Link.
IV/- Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Tây Ninh lập ra Hội Đồng
Chưởng Quản.
Ngày 14. 09. 1989
Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Tây Ninh ra quyết định thành lập HĐCQ để thi hành luật
pháp Việt Nam. Đây là canh bài tráo rất tinh vi. Bởi vì Hội Đồng Chưởng Quản
của Hội Thánh Cao Đài lập ra đã bị chính quyền tỉnh Tây Ninh xóa bỏ (1985) à lập ra Hội Đồng Quản Lý à đến 1989 chính quyền lập ra Hội Đồng Chưởng Quản.
Nghĩa là cùng một tên gọi nhưng khác nhau về nguồn gốc để gây lầm lạc. Link.
V/- Hướng dẫn mật số 21. Ngày 29. 01. 1994 xác định: … nhà nước Việt Nam
muốn nhanh chóng thu hẹp và đi đến xóa bỏ Đạo Cao Đài (trang 02 dòng 14-15
dưới lên).
B/- GIAI ĐOẠN 02: Nhà
nước chuyển sang lập chi phái 1997 để chiếm căn cước của đạo, chiếm Tòa Thánh,
Thánh Thất, Điện Thờ. (Dìm chết nạn nhân
để xóa dấu tội ác.)
I/- Kế hoạch 01. Lập ra chi phái 1997 để diệt Đạo Cao
Đài.
Ngày 27-5-1996 Đảng ủy Tây Ninh ra kế hoạch 01. Trang
02 xác định việc thu hẹp và khoanh lại trong địa
phương Tây Ninh, đến một lúc nào đó sẽ tiêu vong đã bị thất bại. Nên
chuyển sang việc lập ra chi phái 1997 để diệt Đạo Cao Đài. Trang 07 xác định:
nội dung của Hiến chương, việc này làm xong trong tháng 06-1996. Việc góp ý Hiến chương nhằm đạt các yêu cầu sau: Xác định
tôn giáo Cao đài Tây Ninh là một chi phái.
Không sử dụng cơ bút. Bộ máy giáo hội 2 cấp. Như vậy chi phái
1997 là do nhà nước lập ra.
II/- Lập Ban chỉ
đạo thi hành kế hoạch 01.
Hai ngày sau (29. 05. 1996) chính quyền tỉnh Tây Ninh
ra quyết định lập Ban chỉ đạo 11 người là công an và Ban tôn giáo để thực hiện
cho xong trước tháng 07. 1996. Link.
III/- Bắt người
đạo để trấn áp.
Ngày 26. 06. 1996 công an bắt khẩn cấp 03 người là Phó
Trị Sự Võ Văn Liêm, Đạo Sở Trần Văn Khoa và Đạo Hữu Dương Xuân Lương để trấn áp
người đạo, đàn áp phong trào Kiến Nghị yêu cầu Hội Đồng Chưởng Quản hành đạo
đúng theo pháp luật đạo để chấn chính đạo sự.
IV/- Chi phái 1997
ra đời.
Ngày 09. 05. 1997 chi phái 1997 ra đời. Tại thời điểm
chi phái 1997 ra đời các chức sắc lãnh đạo hầu hết là quan chức nhà nước từ
trung ương đến địa phương.
1/- Ông Hồ Ngọc Thơ Hội Trưởng HĐCQ là Phó Chủ Tịch Uỷ ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (1994 – 1999). Link: http://mattran.org.vn/home/gioithieumt/Danh%20sach-DH4.htm
Đồng thời ông Hồ
Ngọc Thơ cũng là Ủy
viên Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh Tây Ninh.
2/- Ông Nguyễn Thành Tám (Giáo sư Thượng Tám Thanh),
Phó Hội Trưởng thường trực Hội đồng Chưởng quản là Ủy viên Mặt Trận Tổ Quốc
Việt Nam tỉnh Tây Ninh (Khóa V, nhiệm kỳ 1994 – 1999).
3/- Tháng 07. 1997 ông Nguyễn Thành Tám là dân biểu
quốc hội của nhà nước cộng sản. (Link: http://dbqh.na.gov.vn/dbqh/ABC/T/type/0/Default.aspx).
4- Giáo sư Hương Nhìn, Ủy viên HĐCQ là Ủy viên Mặt
Trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh Tây Ninh (1994 – 1999). (Link: http://mattrantoquoc.tayninh.gov.vn/uy-vien-ubmttqvn-tinh-cac-thoi-ky/).
V/- Khủng bố người theo Đạo Cao Đài. (Sự kiện gốc bồ
đề.)
Ngày 17. 03. 2008
Khối Nhơn Sanh Đạo Cao Đài hẹn nhau về tại Gốc Bồ Đề tại Tòa Thánh Tây Ninh để
cầu nguyện cho chi phái 1997 thức tỉnh trả Tòa Thánh Tây Ninh lại cho Đạo Cao
Đài. Chi phái 1997 đã ra công văn nhờ công an trấn áp Khối Nhơn Sanh. Ngày 14. 03. 2008 công an đến vây nhà Đạo Hữu
Dương Xuân Lương để bắt, nhưng lúc đó Đạo Hữu Lương đi ngoài đường nên bắt hụt
và sau đó ra lịnh truy nã.
VI/- Nhà nước bao che cho chi phái 1997.
Năm 2009 Khối Nhơn
Sanh có Đơn Khởi Kiện chi phái 1997 về hai việc: Thứ nhất chiếm Tòa Thánh Tây
Ninh. Thứ hai tiếm dụng danh hiệu của Đạo Cao Đài. Tòa án nhận đơn nhưng không
giải quyết.
VII/- Khủng bố ngày 27. 05. 2015.
Ngày 27. 05. 2015
là ngày Khối Nhơn Sanh quyết định tổ chức Lễ Trình Chánh Đại Hội Nhơn Sanh tại
Tòa Thánh Tây Ninh. Để chuẩn bị ngày 05. 05. 2015 phái đoàn Khối Nhơn Sanh gặp
Ban Tôn Giáo trung ương, Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam trung ương tại Hà Nội để mời
dự. Cùng ngày 05. 05. 2015 còn có một phái đoàn khác đến Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh
Tây Ninh mời tham dự. Chính quyền phối hợp với chi phái 1997 đàn áp người Đạo
Cao Đài. Chi phái 1997 cũng ra công văn đề nghị các cơ quan chức năng bảo vệ
việc họ chiếm Tòa Thánh Tây Ninh đồng thời tố cáo Khối Nhơn Sanh là giả danh,
giục loạn.
VIII/- Công văn
42/ 90 ngày 14. 10. 2015.
Ngày 14. 10. 2015
chi phái 1997 ra công văn 42/90 chỉ đạo cho các họ đạo khác phải huy động lực
lượng đàn áp người Đạo Cao Đài năm 1926. Chính quyền có bút phê chỉ đạo cho các
cấp chính quyền giúp chi phái 1997 thực hiện công văn nầy.
IX/- Đuổi chức sắc Hiệp Thiên Đài ra khỏi Nội Ô Tòa
Thánh và đóng cửa văn phòng Hiệp Thiên Đài.
Ngày 26. 11. 2015 cơ quan Hiệp Thiên Đài ra thông báo
xác định: ông Nguyễn Thành Tám là phản loạn chơn truyền, là bàng môn tả đạo. Từ
đây không gọi danh thiên phong nữa mà chỉ gọi thế danh. Chi phái 1997 đuổi các
chức sắc ra khỏi văn phòng Hiệp Thiên Đài, sau đó đóng cửa văn phòng Hiệp Thiên
Đài.
XI/- Giả danh ĐĐTKPĐ để tổ chức ĐHNS tại Hoa Kỳ.
Chi phái 1997 đã dùng danh hiệu ĐĐTKPĐ để tổ chức Đại
Hội Nhơn Sanh Hải Ngoại vào lúc 9 giờ sáng ngày 2/7/2017 tại Hotel Hyatt
Regency Orange County, thuộc Thành phố Garden Grove, Nam California.
XII/-
Chính quyền Việt Nam hổ trợ chi phái 1997 đánh chiếm các Thánh Thất Đạo Cao
Đài.
Phần nầy chúng tôi liệt kê theo 04 phần: Đánh chiếm
các thánh thất; đàn áp tại Nội Ô Tòa Thánh; đánh phá các Lễ thượng tượng, an vị
và tang lễ.
Kết
luận: Nhà nước Việt Nam
đã thực hiện việc tiêu diệt Đạo Cao Đài qua 02 phần: thiêng liêng và hữu hình
là một sự thật với đầy đủ chứng cứ. Kế hoạch tiêu diệt phần thiêng liêng rất
kín đáo. Kế hoạch tiêu diệt phần hữu hình là một canh bài tráo rất tinh vi nên
qua mặt được quốc tế hơn 20 năm qua.
Hoa Kỳ ngày 14.
03. 2018.
Ban thu thập thông
tin hồ sơ vụ kiện chi phái 1997.
Địa chỉ chịu trách
nhiệm. SĐT: 469 642 4667.
Skype: thu.john2.
BÀI THUYẾT ĐẠO CỦA
ĐỨC HỘ PHÁP.
(Nhơn ngày cúng Cửu-Huyền Thất-Tổ tại Trai-Đường
Tòa-Thánh ngày 02-01- Ất - Mùi -1955- vào lúc 11 giờ sáng)
@@@
Hội-Thánh và tín-hữu rước Đức Hộ-Pháp đến dự lễ, sau
phần nghi-lễ Đức Hộ-Pháp hỏi xong chưa?
Ban tổ-chức thưa: Dạ xong rồi.
Ngài nói: “Mời cả thảy nâng ly”.
Đức Ngài nói tiếp: Nay là ngày lễ
cúng Ông Bà chung vào đầu năm, Bần-Đạo lấy tánh cách tình đồng bạn cả các
cơ-quan Nam lẫn Nữ không phân biệt giai-cấp để trao đổi ý-kiến nhau trong tình
thân-mật. Vì ngày mùng 8 tới đây thì bắt đầu vào lễ “Khánh-Thành Tòa-Thánh”
rồi; hiện nay công-việc còn đang bê-bối, bỏ dở; các Châu, Tộc dựng các nơi
triển-lãm cũng chưa xong.
Đức Ngài cầm ly rượu đưa lên lần thứ hai và
tuyên-bố rằng: “Đây là thực nhơn tài thì cứu nhơn tai, từ đây sắp đến biến
thiên chuyển-đổi dân-chúng chịu tai-nàn tang-tóc, bổn phận chúng ta đứng trong
Tôn-Giáo mới nghĩ sao?”
Bần-Đạo vâng lịnh Đức Chí-Tôn đến với hai bàn tay
không. Ngài không cho món chi đặng làm bằng cớ, trái lại Ngài bảo phải bắt gió
nắn hình, làm sao đặng? Ngài bắt buộc phải làm. Bần-Đạo cố gắng thi-hành xong,
tưởng vậy là xong để tu-hành như Tôn-Giáo khác vậy.
Ngờ đâu Ngài ra lệnh Bần-Đạo phải chủ-trương xây-dựng
cho được cái “Tòa Bạch-Ngọc” tại thế nầy, mà tại đây Bần-Đạo biết làm sao mới
thưa: “Bạch Thầy con biết làm sao mà xây-dựng đặng”.
Ngài trả lời: “Con cứ lo làm, Thầy giúp cho, có
Thái-Bạch”.
Bần-Đạo phải chịu hứa; thiệt quá sức khó! Đến chừng
Bần-Đạo cố-gắng thi-hành xong, mừng quá đổi giao cho Ngài. Giờ phúc nầy mình lo
tu an-nhàn tự-toại rồi.
Việc mừng chưa thoả-mãn, kế có lịnh đòi của Đại Từ-Phụ
giao cho Bần-Đạo lãnh làm chiếc thuyền Bát-Nhã rước khách và đưa khách. Bần-Đạo
không biết nghĩ sao mà “Ông Già” trao cái khó-khăn cho Bần-Đạo. Chèo thuyền
rước khách mà đưa làm sao đặng, việc rất khó làm nhưng Bần-Đạo không dám cãi.
Cả vấn-đề, không biết kiểu-vỡ nó ra sao, Bần-Đạo cũng lãnh lịnh. Đại Từ-Phụ
nói: “con cứ lo, có Thầy giúp con”.
Đại Từ-Phụ có tiên-tri trước: “Liên-tiếp Đạo
Cao-Đài còn có bổn phận …”
Giờ phút nầy nó đến mà tuổi-tác Bần-Đạo đã già, lại
thân cô-lẻ, sức yếu hơi đã mòn. Đức Chí-Tôn ra lịnh chiếc “Xa Thơ” đến ngày
trổi bánh. Bần-Đạo có bổn-phận công-dân, mà trái ngược lại Đại Từ-Phụ giao, bảo
phải đẩy chiếc “Xa Thơ” mà còn phải cặm cây cờ “Cứu Khổ” trên “Xa Thơ” ấy; đi
đôi một công hai việc mới nghĩ sao đây?
-Vậy Hội-Thánh và các bạn có thi-ân tiếp sức với
Bần-Đạo phần nào không?!
-Có một vị thưa: “Bạch Ngài có điều chi Ngài ra lịnh
chúng tôi cũng giúp tiếp phần nào với Ngài, chớ có lẽ đâu dám ngó lơ”.
Đức Ngài cười và nói; “Hội-Thánh hứa thì không
nên thất-tín nghe!
Nói thì nói, chớ khi Bần-Đạo ra lịnh đòi
phen, chẳng thấy ai ngó ngàng đến. Chừng “Xa Thơ” nó quạt cánh, cây cờ
“cứu-Khổ” nó vung phát mạnh quá, cả thảy chức-sắc lưỡng-đài không ai dám
lại gần mà đẩy. Bần-Đạo quả-quyết rằng: Gió-giông dục mạnh, nó quay quá
mạnh không ai dám đẩy mà chớ!!!
Khi Bần-Đạo ra lịnh lần chót cả Đạo-hữu nam
nữ, đám nhỏ út xung-phong vào áp đẩy, chớ không biết phải quấy vào đâu hết. Cứ
đẩy, đẩy mãi toát mồ hôi, đã cực-khổ vầy mà rồi anh chị “BỰ” của nó còn
ghét bỏ nó, lấy gậy móc, móc cổ, móc giò nó, mắng nhiếc nó nữa mà chớ, còn thêm
moi-móc cho người ngoài xài-xuể, xúi-giục đánh-đập chúng nó mà cũng chưa
vừa. Vậy mà chúng nó cứ lầm lũi đến sau nên phận.
Thôi! đến đây xong xin giải-tán, chúng ta còn lo cuộc
lễ đã gấp.
ĐỨC HỘ PHÁP.
GHI CHÚ:
LỜI THUYẾT ĐẠO của Đức Hộ Pháp sau khi đi
đày ở Madagascar về Hội Thánh đã kiểm duyệt và cho cho xuất bản đến quyển 4
(1951). Còn từ đó về sau là bản của Ban Tốc Ký (Hội Thánh chưa duyệt).
Đây là bài Hội Thánh chưa duyệt mà cũng có
thể không nằm trong bản của Ban tốc ký. Nó có trong tủ sách của ông Thanh Minh
(Phạm Thanh) Tôi mượn đọc thấy hay và đúng với văn phong của Đức Hộ Pháp nên đem
ra phổ biến.
Còn ai nại lý rằng Hội Thánh chưa kiểm
duyệt chưa tin cũng OK.
Chương
Trình Hành Ðạo (01-04-1933).
Lời phụ:
Sau khi giao quyền hành Chánh Phối Sư cho Hiệp Thiên
Ðài, Qu. Giáo Tông có mời ba vị Chánh Phối Sư và Nội Chánh hiệp về Tòa Thánh
đặng lập chương trình hành Ðạo.
Trong lúc hội đặng lập chương trình, Qu. Giáo Tông và
Hộ Pháp có đến dự thính. Qu. Giáo Tông cũng có mời ba vị Qu. Ðầu Sư hoặc đến dự
kiến hoặc chỉ vẽ điều chi giúp cho nên việc (Thơ số 34 đề ngày 4-3-1933), Qu.
Ðầu Sư Thượng Tương Thanh có đến dự hội một lần.
Chương trình hành Ðạo đã lập thành, lẽ là phải đem ra
cho Thượng Hội, Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh phê chuẩn, nhưng vì các khoản Nghị
Ðịnh trong chương trình đều không trái với Pháp Chánh Truyền, Tân Luật và Ðạo
Nghị Ðịnh và nhứt là cần phải thi hành lập tức, cho nên chúng tôi nhứt định
dụng Quyền Chí Tôn giúp cho ba vị Chánh Phối Sư đủ quyền thi hành chương trình
hành Ðạo ấy, khỏi đem ra ba Hội phê chuẩn.
Quyền Chí Tôn của Giáo Tông và Hộ Pháp do nơi Thánh
giáo của Ðức Chí Tôn ngày 23-12-1931 (có in theo đây mà có).
Tòa
Thánh, ngày 1 tháng 4 năm 1933 (Âm lịch, 7-3-Quý Dậu).
|
|
Hộ Pháp
PHẠM CÔNG TẮC |
Qu. Giáo Tông
THƯỢNG TRUNG NHỰT |
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ
PHỔ ÐỘ
|
(Ðệ Bát Niên)
|
Kính cáo cùng chư Huynh Trưởng và chư Ðạo Tỷ
Thiên Phong, chư Chức Sắc và chư Ðạo Hữu Lưỡng Phái.
Chư Hiền Huynh, chư Hiền Tỷ,
Bổn "Chương Trình Hành Ðạo" in theo sau đây
là của chúng tôi hiệp với Nội Chánh Cửu Trùng Ðài đặng lập thành và đã có Ðức
Qu. Giáo Tông và Hộ Pháp phê chuẩn.
Trong lúc chúng tôi và Nội Chánh bắt đầu hành chánh
thì mỗi việc chi trong Ðạo đều phải quan sát lại kỹ lưỡng hầu tìm phương nâng
cao phẩm giá nền Chánh Giáo của Ðức Từ Bi và giúp cho nhơn sanh dễ bề tu niệm.
Vậy
chúng tôi có mấy lời tâm huyết xin chư Huynh Trưởng, chư Ðạo Tỷ và chư Ðạo
Hữu Lưỡng Phái biết và xin hết lòng Ðạo giúp cho chúng tôi được đủ thế sắp
đặt các việc. Chúng tôi tưởng ai ai cũng bằng lòng và cầu cho các điều kể
trong chương trình của chúng tôi hiến dâng cho thành tựu.
Tòa
Thánh Tây Ninh, ngày 0 7.0 3 năm Quý Dậu. (DL 1-4-1933)
|
|||||
|
|
|
NỘI CHÁNH
·
Phối
Sư: Thượng Tông Thanh.
·
Giáo
Sư: Thượng Bảy Thanh.
·
Giáo
Sư: Thượng Thành Thanh.
·
Giáo
Sư: Thượng Latapie Thanh.
·
Giáo
Sư: Thượng Liêng Thanh.
·
Giáo
Sư: Ngọc Trọng Thanh.
·
Giáo
Hữu: Thái Gấm Thanh.
·
Giáo
Hữu: Thái Như Thanh.
·
Giáo
Hữu: Thái Bộ Thanh.
·
Giáo
Hữu: Thượng Thiện Thanh.
·
Giáo
Hữu: Thượng Tại Thanh.
·
Giáo
Hữu: Thượng Hộ Thanh.
·
Giáo
Hữu: Thượng Sáng Thanh.
·
Giáo
Hữu: Thượng Trí Thanh.
·
Giáo
Hữu: Thượng Tuy Thanh.
·
Giáo
Hữu: Thượng Ðức Thanh.
·
Giáo
Hữu: Thượng Mía Thanh.
·
Giáo
Hữu: Thượng Lai Thanh.
·
Giáo
Hữu: Thượng Áo Thanh.
·
Giáo
Hữu: Ngọc Bổn Thanh.
·
Giáo
Hữu: Ngọc Non Thanh.
·
Lễ
Sanh: Thượng Tài Thanh.
·
Lễ
Sanh: Thượng Quơn Thanh.
·
Lễ
Sanh: Thượng Chất Thanh.
CHƯƠNG TRÌNH HÀNH
ÐẠO
PHÁI
THÁI:
1. Lập Nội Luật Hội Thánh:
Chú Giải:
Quyền Hành Chánh tuy giao cho ba vị Chánh Phối Sư, chớ mọi việc chi thi hành
đều phải do theo chương trình Ðạo của Thượng Hội, Hội Thánh, và Hội Nhơn Sanh
đã phê chuẩn.
Quyền của ba Hội là Quyền Vạn Linh. Việc nào đã có Quyền Vạn Linh định đoạt thì Quyền Chí Tôn
là quyền của Giáo Tông và Hộ Pháp phải y theo. Quyền Chí Tôn lại quyết đoán khi
nào có sự phản khắc trong Quyền Vạn Linh, nghĩa là ba Hội không đồng ý kiến.
Chiếu theo Ðạo Nghị Ðịnh thứ tư, điều thứ ba thì Hội
Thánh phải dưới quyền Chủ Trưởng của Thái Chánh Phối Sư và trách nhậm là lo về
phổ độ, việc hành Ðạo tha phương, về tài liệu của Ðạo, lương hướng cho Chức Sắc
Thiên Phong, về tài chánh và cả nền chánh trị của Ðạo.
Hội Thánh phải tìm phương hay đặng tu bổ, và nâng nền
lý tài của Ðạo, phải tìm phương sanh lợi cho Ðạo nhờ. Tóm lại, phải lo cho sự
sanh hoạt của toàn Ðạo đặng vững chắc về mặt tài chánh tức là lo sự sanh hoạt
của toàn Ðạo về mặt phổ độ cũng đặng mạnh mẽ.
Hội Thánh đã có phương sanh lợi, nghĩa là: Có bên
thâu, thì bên xuất cũng phải liệu phương giúp ích cho Ðạo, phải chăm nom quan
sát không cho xa xí của Ðạo và phải giúp ích cho toàn Ðạo hưởng đặng các cơ tạo
của Ðạo về phần hữu hình.
2. Thâu nạp các của cải tài chánh làm bổn nguyên về
của cả thảy:
Chú giải:
Của cải tài chánh của Ðạo như: Ðất, ruộng, nhà, ghe, xe, trâu, bò, ngựa, ...v...v...
đều phải đem vô bộ sổ rành rẽ thâu Bàn Ủy Viên thường vụ. Bàn Cai Quản nầy phải
kiếm phương dụng các của ấy tức là sanh lợi của chúng sanh nhờ, chớ không nên
thâu mà làm tiêu lụn của Ðạo, phải nạp Tờ Phúc mỗi tháng, ba tháng và mỗi năm.
3. Chỉnh đốn tu bổ các nhà cửa trong Thánh Ðịa, cất
Tòa Thánh, lo cho Tiểu Thánh Thất ở các nơi phải y một kiểu.
4. Nền lý tài lập tư bổn phát lương hướng cho các Chức
Sắc Thiên Phong Nam Nữ.
Chú giải:
Mỗi việc chi có thâu xuất thì phải cử một Ban Ủy Viên lo lắng và quan sát sổ
sách và nạp Tờ Phúc mỗi tháng, ba tháng và mỗi năm.
5. Liệu thế giúp sức cho Hội Thánh Ngoại Giáo truyền
bá Chơn Ðạo ra ngoại quốc.
Chú Giải:
Việc phổ độ tha phương chẳng phải kể nội vùng Ðông Pháp nầy mà đủ, mà là cả
toàn cầu, đâu đâu Hội Thánh cũng phải đến gieo truyền mối Ðạo Trời. Chủ nghĩa tối cao của Ðại Ðạo chẳng những là hiệp Ngũ Chi
qui Tam Giáo mà thôi, mà phải làm thế nào cho dầu các bực Ðế Vương ngoài thế
cũng phải bái phục, phải tùng Ðạo, phải đồ theo cả cơ thể của Ðạo; phải nhờ Ðạo
mới mong trị an thiên hạ đặng. Vậy mới gọi là hiệp nhứt. Vậy mới kêu là Ðại
Ðạo.
Thánh ngôn của Ðức Lý Giáo Tông ngày 29-12-1932 lại
nói rõ như vầy: "Thiên lý đã định vậy, bất
kỳ nơi nào hễ có dấu chơn người Việt Nam đến thì Ðạo mới thành được".
Trong buổi Hội Thánh đang lo sắp đặt nội dung của Ðạo,
thì Hội Thánh Ngoại Giáo đã khởi lập hầu phổ hóa các sắc dân khác. Trên nhờ các
Ðấng Thiêng Liêng chỉ giáo, với Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, Ðức Tôn Sơn Chơn
Nhơn, và Bát Nương, Lục Nương Diêu Trì Cung, dưới nhờ các Chức Sắc Ngoại Giáo
hết lòng tuân y mạng lịnh cho nên khắp toàn cầu đều nghe danh thế Ðại Ðạo Tam
Kỳ. Hiện nay ở kinh đô nước Pháp là thành Paris đã có người Pháp thọ Thiên sắc
đặng lo phổ độ người Pháp và lập thành Thánh Thất. Rồi đây Hội Thánh Ngoại Giáo
phải liệu phương phổ độ lần qua nước khác nữa.
6. Cất trường học.
7. Sắp đặt việc ăn ở và hành Ðạo nơi Thánh Thất, việc ăn uống của phái Nam và phái Nữ.
8. Không cho ở trong Thánh Ðịa mà không có phận sự và không có giấy phép của Giáo Tông hay là người thay
mặt cho Ngài.
9. Không cho ở trong làng Ðạo mà không có giấy phép của Giáo Tông hay là người thay mặt cho Ngài.
10. Không cho cất nhà cửa hay là lập cái chi mà không
có giấy phép của Giáo Tông hay
là người thay mặt cho Ngài.
11. Rào ranh Thánh Ðịa.
12. Cất giếng nước, sắp đặt ở trục trược.
13. Công quả về việc moi sạn.
14. Lò gạch.
15. Cất nhà cho Thiên Phong Chức Sắc.
PHÁI
THƯỢNG:
1. Xem xét Thánh ngôn, những điều cần ích của Ðại Từ Phụ và Ðức Lý Giáo Tông
đã dạy từ thử mà chưa thi hành. Nếu như có những điều trọng hệ cần ích phải thi
thố lập tức thì Hiệp Thiên Ðài phải làm Tờ Phúc đem ra ba Hội đặng lập Luật ban
hành liền.
Chú Giải:
Phải cử một Ban Kiểm Dượt Thánh ngôn, Ban Kiểm Dượt nầy sẽ dưới quyền Chủ
Trưởng của một vị Chưởng Pháp.
Còn về thể lệ chấp cơ và ban hành Thánh ngôn thì sẽ
thi hành y theo Châu Tri số 42 ngày 01-02-1932 của ông Cựu Chánh Phối Sư Thượng
Tương Thanh nói về chương trình hành Ðạo của Hiệp Thiên Ðài.
2. Bỏ bớt các Thánh Thất không hữu dụng và không có phép của Chánh Phủ để làm
nơi Phước Thiện hay là nơi Tiểu Tổ giúp lương.
3. Lo cho Tiểu Thánh Thất các nơi cúng kiến y một kiểu
về Luật lệ cũng vậy.
Chú Giải:
Lễ Nghi đã có phái Ngọc lập cho thì cứ do theo Luật lệ ấy mà buộc các nơi hành
lễ một kiểu.
4. Ðịnh trách nhậm đặc biệt của Tòa Thánh, các Thánh
Thất và Hội Thánh Ngoại Giáo về việc tùng quyền hành Ðạo.
Chú Giải:
Tòa Thánh thì có Nội Luật riêng, còn các Thánh Thất thì phải tức cấp lập Nội
Luật phân quyền cho rành, nhứt là quyền đặc biệt của Bàn Cai Quản, chủ Thánh
Thất và Ðầu Họ Ðạo. Trước khi cho cất Thánh Thất phải quan sát buộc phải làm
giấy tờ cho rành rẽ, phải làm thế nào có tiền cất, cất rồi ai ở, Chức Sắc nào
chịu ở, bề sanh hoạt thế nào....
Ðạo Nghị Ðịnh thứ tư, điều thứ bảy, có định để y Cửu
Viện, vậy phải phân quyền hành mỗi Viện mà thi hành y như trước.
5.
A.
Lập Báo Chương đặng truyền bá tư tưởng Ðạo, lập Tàng
Thư Viện.
B.
Lập Bàn Kiểm Dượt kinh sách Ðạo không có Chưởng Pháp
phê chuẩn.
C.
Cử Bàn Ủy Viên cai quản nhà in.
6. Liệu phương giao thiệp cùng các Tôn Giáo và các Chi
Phái nghịch Ðạo, điều hòa cho
khỏi chinh nghiêng nền Ðạo.
7. Giao thông cùng Chánh Phủ, minh tỏ những điều chơn thật của Ðạo.
8. Lập trách nhiệm cho Ty Giáo Huấn, dầu Ðạo giáo hay Thế giáo cũng vậy.
9. Nuôi dưỡng học sanh.
10. Lập các Sở Vệ Sinh.
11. Lập Nội Luật Hội Nhơn Sanh.
Chiếu theo Ðạo Nghị Ðịnh thứ tư, điều thứ tư thì Hội
Nhơn Sanh dưới quyền Chủ Trưởng của Thượng Chánh Phối Sư và trách nhậm là lo về
phần giáo dục nhơn sanh, tức là Ðời, có Ðời mới có Ðạo, mà có Ðạo mới nên Ðời
thì phải liệu phương điều đình cho Ðời phải tùng Ðạo; dìu dắt cho Ðời thấy cả
cơ thể tối cao tối trọng của Ðạo và biết giá trị của mình và cầm quyền hành Vạn
Linh cho chặt; phải nâng đỡ trí thức tinh thần của nhơn sanh lên cao đặng hiểu
cho toàn chơn lý hầu đủ phương kiềm chế hành động của Hội Thánh.
Lập thế điều độ chúng sanh vào cửa Ðạo và liệu phương
kiềm chế cho Tín Ðồ để bước trên đường Ðạo và tuân y được các Luật Ðạo.
Lại nữa, Ðời đã có chính trị của Ðời, thì cũng phải
xây chuyển cơ Ðời cho hiệp cùng chơn tướng của Ðạo.
12. Khai phá Thánh Ðịa.
PHÁI NGỌC:
1. Xin Quyền Giáo Tông giao các việc hành chánh từ thử
đặng quan sát lại; nhứt là Luật lịnh
của Ngài ra mà chưa thi hành.
2. Chiếu theo các Ðạo Nghị Ðịnh mời Chức Sắc Thiên
Phong Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài phế đời hành Ðạo.
Chú Giải:
Vì Chức Sắc hiến thân trọn vẹn cho Ðạo sẽ được lương hướng y theo Ðạo Nghị Ðịnh
thứ tư của Ðức Lý Giáo Tông, cho nên phải xem xét cho kỹ, vị nào hữu dụng cho
Ðạo mời về; nhưng nếu đã được lịnh mời về thì buộc phải lo phế đời hành Ðạo,
bằng không lo lần thì không kể vào Hội Thánh, không được dự vào chánh trị của
Ðạo y theo Ðạo Nghị Ðịnh thứ năm của Ðức Lý Giáo Tông. Mà hễ phế đời hành Ðạo
rồi thì Hội Thánh phải châu cấp thê nhi.
Số tiền châu cấp phải tùy theo bực phẩm và nhứt là
phải tùy theo số vợ con.
3. Trừ bỏ những Chức Sắc tạm phong của Cửu Trùng Ðài
đã thuyên bổ hành chánh các nơi.
Chú Giải:
Theo Tân Luật điều thứ ba thì phải chịu công cử, như Giáo Hữu muốn lên Giáo Sư
phải nhờ 3.000 vị xúm nhau công cử. Nhưng hiện thời số Chức Sắc chưa đủ thì
phải cầu phong cách nầy:
Dầu trong hàng Chức Sắc hay trong hàng Tín Ðồ cũng
phải xem xét lại công cán và hạnh đức, đem vào Sổ Bộ Cầu Phong. Sổ ấy phải
trình cho ba Hội lựa và định bực phẩm. Có ba Hội chịu rồi thì Giáo Tông và Hộ Pháp
mới ra Ðạo Nghị Ðịnh phong chức.
Ngoài ra, theo Luật Ðạo thì Chức Sắc Thiên Phong phải
lựa theo đẳng cấp mới được; Lễ Sanh thì phải lựa trong hàng Chánh Trị Sự.
4. Bổ các Bàn Trị Sự thế quyền Chức Sắc Thiên Phong
đặng cầm quyền Ðạo các nơi.
5. Ðịnh mỗi năm cả Chức Sắc Thiên Phong phải về Tòa
Thánh mấy lần cho bớt việc tổn phí.
Chú Giải:
Mỗi năm Chức Sắc Thiên Phong phải về Tòa Thánh hai lần là ngày Ðại Lễ Ðức Chí
Tôn và ngày Khai Ðạo là ngày Rằm tháng 10. Muốn cho bớt việc tổn phí cho nên sẽ
định lại ngày Ðại Hội của Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh cho trùng với hai ngày
trên đây.
6. Trừ bỏ những điều Chức Sắc Thiên Phong Cửu Trùng
Ðài và Hiệp Thiên Ðài đã thật hành ra mặt thế mà sái Luật Pháp.
7. Canh cải những hành động của Cửu Trùng Ðài không
phù hạp với Pháp Chánh Truyền và Tân Luật.
8. Ðịnh trách nhậm đặc biệt của Cửu Trùng Ðài và Hiệp
Thiên Ðài.
9. Ðịnh trách nhậm đặc biệt của mỗi Chức Sắc Cửu Trùng
Ðài Nam và Nữ.
Chú Giải:
Việc hành chánh của Chức Sắc các nơi cũng phải lập thành mặt Luật. Trách nhậm
của các Hội Thánh Ngoại Giáo cũng vậy.
Luôn đây xin giải bốn chữ Hội Thánh Ngoại Giáo:
Phải đọc Hội Thánh Ngoại Giáo chớ không phải là Ngoại
Giao. Hội Thánh Ngoại Giáo là một cái Hội của chư Thánh để giáo Ðạo ở ngoại
quốc. Bậc phẩm và trách nhậm tuy phải tuân theo Luật Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ,
hành chánh tuy hiện thời phải tùng quyền của Thái Ðầu Sư nhưng cũng có phần đặc
biệt là phải tùy theo tánh cách của người bổn xứ, tài liệu và vật
liệu...v...v...
10. Chỉnh đốn các thức lệ cúng kiến:
Chú Giải:
Ngoài các thức lệ chỉnh đàn hành lễ phải cho y một kiểu vở, phải định thêm lễ
nghi về quan, hôn, tang, tế, ... buộc các nơi phải tùng theo một luật lệ, phép
Giải Oan, phép Tắm Thánh.... cũng vậy.
Về nhạc cũng phải chỉnh đốn, nhứt là giọng đọc kinh
của Ðồng Nhi, phải phân biệt ba giọng: Ai, Xuân và Ðảo Ngũ Cung. Hơi đọc kinh
có ảnh hưởng nhiều về sự hòa bình êm tịnh và phát thạnh của Thánh Thất sở tại,
cứ tụng một hơi ai oán thì không khác nào cầu sự khổ não cho Thánh Thất mình.
Ðạo phục cũng phải y theo Pháp Chánh Truyền. Ðáng lẽ
Tòa Thánh hay là các Thánh Thất phải may Ðạo phục mà ban cho các Chức Sắc khi
thiết lễ ban quyền. Hàng Tín Ðồ không có Ðạo phục đặc biệt thì không được mặc
áo rộng tới Ðàn cúng.
Khi hành lễ phải theo đẳng cấp mà quì, người trước,
người sau y theo Pháp Chánh Truyền.
11. Thảo Xá Hiền Cung:
Chú Giải:
Thảo Xá trước đã có lịnh dạy làm Trường Qui Thiện cho Nữ phái, thì nay cũng sắp
đặt đặng có chỗ cho các Ðạo Cô ở mà tu hành. Việc nầy sẽ bàn tính với Bà Chánh
Phối Sư Nữ phái và phải lập Bàn Cai Quản Nữ phái dưới quyền kiểm soát của Tòa
Thánh.
12. Lập Nội Luật Tòa Thánh và Thánh Ðịa:
Chú Giải:
Chẳng phải nội Ðền Thờ Ðức Chí Tôn và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật mà kêu là Tòa
Thánh. Cả khuôn viên của Tòa Thánh là gồm hết Thánh Ðịa, gồm cả Thành Ðạo mà
người làm chủ là Giáo Tông hay là người thay mặt cho Ngài.
Nội Luật của Tòa Thánh phải cần có đặng thi hành lập
tức.
13. Kiểm soát các người giúp việc riêng cho các Chức
Sắc tại Tòa Thánh. Thuyên bổ người
tuần phòng Thánh Ðịa Tòa Thánh và người giúp việc tại tư gia của Chức Sắc trong
Thánh Ðịa.
14. Kiểm soát các án tiết của Tòa Tam Giáo đặng xin ân
xá.
15. Hội cả ba Hội đặng cầu phong thêm Chức Sắc và
thăng thưởng các Chức Sắc có công lao.
Cầu phong cho Ðầu Sư Nữ Phái.
@@@
Bài
Diễn Văn của Ðức Quyền Giáo Tông, ngày 20-05-1934 (08-04-Giáp Tuất): Vía Ðức
Phật Thích Ca Về Phương Diện Chánh Thể Ðạo.
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ
PHỔ ÐỘ
|
(Ðệ Cửu Niên)
|
Bài
Diễn Văn của Ðức Quyền Giáo Tông đọc tại Tòa Thánh, ngày mùng 8 tháng 4 năm
Giáp Tuất (1934).
Vía Ðức Phật Thích
Ca Về Phương Diện Chánh Thể Ðạo
Chư Ðạo Hữu
cùng chư Ðạo Muội,
Buổi chênh
nghiêng Ðạo đã hầu qua. Tâm lý toàn con cái của Ðức Ðại Từ Phụ dường như đặng
chuẩn thằng, an tịnh đủ để trọn trí thức tinh thần suy gẫm, nên Tệ Huynh ngày
nay toại chí lượm lặt những lời châu ngọc của Ðức Chí Tôn và các Ðấng Thiêng
Liêng thuyết giáo đặng chỉ rõ Thánh ý nơi nào để cho Ðạo phải chịu khảo đảo
dường ấy. Cái hữu ích của sự khảo đảo sẽ tỏ tường nơi Bài Thuyết Pháp này,
nhưng xin chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội cố tâm tìm hiểu.
Các Tôn Giáo
đã lập thành tại mặt thế nầy đã đoạt đặng một cái quyền hành hữu vi kiên cố,
thì trước kia cũng phải chịu khổ hạnh nương lấy một quyền hành bạc nhược, yếu
ớt của tâm lý mà thôi.
Ôi, quyền
hành tâm lý buổi nào thì cũng gặp sẵn một tay thù địch mạnh mẽ, cường thạnh,
oai nghiêm, là quyền Ðời hiện hữu. Sự xung đột của quyền Ðời và quyền Ðạo tự cổ
chí kim tự nhiên đều có. Chúng ta đã choán biết rằng những quyền lực mà hành
thế đều nương theo tinh thần mà sản xuất. Trứng tinh thần ấy nở sanh quyền lực,
vì cớ cho nên các quyền hành đã có đủ thế lực mạnh mẽ, nắm thế trị vào tay, hễ
vừa thấy trí thức tinh thần của nhơn sanh ướm mòi sản xuất một cái trứng quyền
hành chi khác nữa thì đã sợ lưu hại mình nên toan phương đạp đổ.
Cuộc kết quả
sự phản kháng ấy hoặc thành, hoặc bại, có ảnh hưởng của tương lai sanh hoạt
quyền lực đương nhiên của họ vì cớ mà sự xung đột hằng xem dữ dội.
Ấy là phương
khảo thí tài lực của trí thức tinh thần, hầu làm cho trí thức tinh thần sanh
điều hay, bày điều dở; hay thì chánh dở thì tà; chánh thì còn tà thì dứt. Ấy
vậy, dầu cho sự xung đột của quyền Ðạo với quyền Ðời thoảng đã làm cho lao tâm
tiêu tứ của những trang chấp chánh Ðạo quyền đi nữa, là phương chước tô điểm vẽ
vời cho lịch xinh mặt Ðạo. Phận sự bảo trọng lấy mình là dễ; còn phận sự bảo
Ðạo vốn khó vô cùng. Ðáng lẽ những kẻ khuyến khích cho Tệ Huynh bảo trọng lấy
mình nên gọi là người ơn; còn những người khuyên lơn, bảo tồn nền Ðạo nên cho
là kẻ nghịch mới phải. Tệ Huynh tưởng khi chẳng cần nói thì chư Hiền Hữu, chư
Hiền Muội cũng đã choán biết rằng: Chẳng lẽ Chí Tôn chọn lựa Tệ Huynh giao cầm
quyền mối Ðạo đặng bảo trọng lấy Tệ Huynh mà thôi. Trái ngược thì lại nhủ rằng:
Phải hủy mình đặng bảo tồn sanh chúng. Chẳng lẽ chúng ta đành cho rằng trọng
mình hơn trọng Ðạo là chơn lý.
Ôi! Biết bao
phen, đêm khuya thanh vắng, Tệ Huynh nằm gát tay lên trán thầm hỏi lấy mình:
Một mảnh thân
phàm nầy, cô thân bạc nhược nầy, yếu ớt hèn mọn nầy, có đủ tài đức chi mà Ðại
Từ Phụ lại tin giao một cái giang san sự nghiệp của toàn nhơn loại hoàn cầu
đặng cho gánh vác.
Càng nghĩ
càng lo, lo rồi lại sợ; sợ không kham trách nhậm mạng Trời. Càng suy càng tủi,
tủi rồi lại khóc; khóc sợ không phương nâng đỡ nổi chơn truyền.
Ðại Từ Phụ
lại quy tụ con cái của Ngài gần trên một triệu sanh linh, biểu bảo hộ, nâng niu
dạy dỗ?
Anh thì
nghèo, em thì khó, gia nghiệp không mà quyền thế cũng không, bị cường bức ép đè
mang khổ hạnh.
Ðã chín năm
Tệ Huynh thấy ngờ ngờ trước mắt nhiều thảm trạng khó khăn; tinh những tiếng
khóc than chẳng dứt. Kẻ thì đói, người thì đau; Chức Sắc thì hèn, Tín Ðồ thì
dở, mối thương tâm chất chứa đầy lòng, giọt huyết lệ toàn đêm chẳng ngớt.
An đâu đặng
mà tịnh, vui đâu đặng mà nhàn. Chúng sanh thì khóc, Hội Thánh thì than mà chẳng
thấy một ai lo trọn Ðạo. Tệ Huynh xem lại những trang yếu trọng chấp chánh Ðạo
quyền, thay vì chia đau sớt thảm, lo giải khổ cho chúng sanh, lại cố ý giựt
giành quyền thế. Nhiều vị lại muốn cho Tệ Huynh ngồi đó điềm nhiên những thảm
khổ ngơ tai bịt mắt; lại buộc Tệ Huynh phải an tịnh đặng đắc Ðạo thành Tiên,
dầu mối Ðạo chinh nghiêng đừng ngó đến.
Cái sở vọng
của các người ấy, Tệ Huynh để cho chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội kiếm hiểu coi họ
để tại nơi nào không cần cạn tỏ.
Vì Tệ Huynh
biết đặng cái bí mật huyền vi ấy, nên không khứng nghe lời mới nảy sanh ra
trường ác cảm.
Nào là lường
gạt nhơn sanh, nào là tranh giành quyền tước, gieo nhục nhã khắp nơi, lấy quyền
Ðời chế Ðạo. Một trường ngôn luận xảo quyệt, dối gian truyền cùng làng khắp
xóm, nhưng sự kết cuộc cũng không hại chi cho danh thể của Tệ Huynh, duy làm
cho thiên hạ chê khinh Chánh Giáo. Chẳng biết lương tâm của những kẻ phá Ðạo
ngày nay nó phải thế nào, lẽ tà chánh trọng khinh sao chẳng rõ.
Tệ Huynh ngồi
nhớ lại đã cách mười năm, nghĩa là hạ tuần năm Sửu, Tệ Huynh còn làm Thượng
Nghị vào lầu ra các; trong thì bạn ngoài thì quan, nẻo hoạn lộ hèn sang đã
chán, lẽ nhục vinh đã ngán với tuồng đời, mùi cay đắng đã từng quen với mặt
thế, nào là mày trung nào là mặt nịnh đã trông nom mỏi mắt mòn hơi, nên mới
biết chê đời mến Ðạo.
Nay lục tuần
hầu đến, lẽ nên hư quyền biến cũng đã thừa; có chi hay phòng mến phòng ưa; có
chi trọng phòng yêu phòng chuộng. Tệ Huynh hằng hỏi lấy mình, cái ngày của Ðại
Từ Phụ sai Hộ Pháp và Thượng Phẩm đem lịnh vào nhà mà dạy một đứa tội tình nầy
phải dâng trọn xác hồn cho Ngài làm lợi khí mở chơn truyền, nên gọi là ngày hữu
duyên hay là ngày trả nợ? Nếu phải trả nợ thì Thầy lại nào đành giao một cái
gia nghiệp vĩ đại của nhơn sanh cho một kẻ tham gian ngược, còn như gọi rằng
duyên thì chắc đủ lực quyền cầm vững Ðạo.
Ðã chín năm
xông lướt trên con đường đi than lửa, bước chông gai mà cũng có thể bảo thủ
chơn truyền của Thầy vững vàng toàn hảo, thì không phải là một tay giả mạo hay
là một đứa tội nhơn, mà làm cho Thánh chất đặng thắng hơn phàm tánh.
Bởi biết
mình, biết Thầy, biết người, biết Ðạo, mới yên trí Ðạo tâm, giữ gìn Ðạo mạch.
Tệ Huynh duy
có một sở vọng là ngày nào Ðạo đắc thành, đời đặng thái bình thì thối bước lui
chơn liền đặng thích chí du sơn ngoạn thủy; cái vui cùng tận của Tệ Huynh ở tại
nơi đó mà thôi, chớ chẳng phải tại mến đời ngồi chịu khổ.
Ngày nay là
ngày vía Ðức Thích Ca Mâu Ni mà Tệ Huynh không giải tích Ðức Thích Ca, vì chư
Hiền Hữu Lưỡng Phái cũng hiểu rõ tích của Ngài, và chư Hiền Hữu cũng thông suốt
Phật Ðạo chút ít rồi.
Tệ Huynh chỉ
để thì giờ quí báu đặng nhắc cho chư Hiền Hữu Lưỡng Phái nhớ một hai Tôn chỉ
quí trọng của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ đương thời, nhứt là về phương diện thể của
Ðạo.
Tuy Tệ Huynh
không giảng Phật Ðạo, chớ Ðại Ðạo ngày nay cũng là Phật Ðạo, vì gồm hết Tam
Giáo (Nho, Thích, Ðạo) và Thích Ca cũng là Thầy, Thầy là Thích Ca.
Tệ Huynh hằng
nhắc chư Hiền Hữu, chư Hiền Muội rằng: Ðạo vẫn một, mà mỗi thời kỳ khai Ðạo thì
phương diện khác nhau vì Ðạo khai phải phù hạp với dân trí đương thời khai Ðạo.
Khi Ðức
Thích Ca mở Ðạo Phật thì nhơn sanh buổi ấy còn Thánh Ðức nhiều; cá nhơn
đều ngán sự khổ não truân chuyên ở thế nên Thiên Ðình phú cho Ngài lấy tôn chỉ
tiêu cực diệt Tứ Khổ (Sanh, Lão, Bịnh, Tử) mà độ chúng.
Ngài cũng bị
lắm điều truân chuyên khổ não, lao thân tiêu tứ với đời, mà chừng thành Ðạo
cũng bị quỉ phá một hồi dữ dội, rồi mới thành Ðạo.
Ðức Lão Tử
khai Ðạo Tiên thì dùng huyền diệu pháp làm tôn chỉ cao thượng, vì
đương buổi ấy thì nhơn sanh ưa huyền diệu phép tắc.
Ngài cũng bị
nhơn sanh cho là Lão già mê hoặc chúng. Ðệ tử của Ngài cũng lần lần xa Ngài cho
đến đổi khi Ngài đi qua Hàm Cốc Quan vô Nha môn của Doãn Hỉ đặng độ ông nầy là
chơn linh Ngươn Thỉ thì Từ Giáp là học trò hầu cận Ngài vì mê sắc mà sa ngã rồi
cũng xa Ngài. Mà Ðạo Tiên cũng thành tựu và cũng truyền bá tứ phương vậy.
Khổng Phu
Tử thọ lịnh Thiên Ðình xuống khai Ðạo Nho đặng sửa
nhơn luân trong buổi Châu mạt. Vì trong buổi ấy cang thường, luân lý suy đồi,
nên nhơn sanh thấy cái Ðạo nhơn luân của Ngài hay sửa đời đặng thì khâm phục.
Ngài cũng lắm
công nhọc nhằn với đời, qua Tề bị Yến Anh, qua Yên bị phế, qua Triệu bị đuổi,
kẻ bắt người buộc, ăn vạc nằm sương nhọc nhằn biết mấy. Ðến đổi nhà Tần tàn bạo
không xiết kể, phần thi khanh Nho (đốt sách, chôn học trò) mà Ðạo Nho cũng loan
truyền khắp hoàn cầu.
551 năm sau
Khổng Phu Tử mới có khai Ðạo bên Thái Tây, nên Thầy cho Ðức Chúa Jésus
Christ giáng sanh khai Ðạo Thánh cho phù hạp với dân trí Âu Châu.
Ðức Chúa
Jésus cũng bị cường quyền Israel áp bức cho đến đổi, hồi ban sơ thì có 12 vị
Thánh Tông Ðồ theo Ngài, mà sau còn có một Thánh Pierre mà thôi.... Nhưng Người
cũng phải chối Chúa ba phen đặng tránh cường quyền bắt buộc.
Chừng Ðạo
thành thì có Du Già bắt Ngài mà nạp cho Chánh Phủ hành hình, đóng đinh trên cây
Thánh Giá; hành xác Ngài gớm ghiếc như thế đặng cho nhơn sanh kinh khủng mà bỏ
Ðạo, mà Ðạo Thánh cũng gieo truyền khắp cả hoàn cầu.
Lúc Ðạo Gia
Tô truyền qua Ðông Pháp thì vua An Nam cũng nhặt cấm, bắt mấy người theo Ðạo
Gia Tô quá Thập Tự, ai không bước ngang qua thì bị tử hình.
Hình phạt gớm
ghê như thế mà cũng có người chí Thánh, thọ tử mà thôi chớ không chịu chối Ðạo.
Xét kỹ lại,
thiệt người xưa là Thánh Ðức, ít ai bì kịp, cứ giữ chánh tâm làm trọng, thủy
chung như nhứt mà thôi.
Ngảnh lại đời
nay mà ngán cho đời!! Ôi, trong tám năm dư chuông Thánh truy hồn, Ðạo Trời đem
tin cứu thế mà hễ có nghe phưởng phất lời đồn huyễn hoặc chi của người toan phá
Ðạo thì mau mau cuốn Thánh Tượng, dẹp Thiên Bàn lòng toan chối Ðạo....
Biết bao
nhiêu người nịnh quyền hiếp thế, xu phụ theo nịnh tà mong toan phá Ðạo, rước
rắn rừng vô cắn gà nhà, nạp chí Thánh vô đề lao cho phỉ lòng oán hận.
Con một cha,
gà một ổ, mà làm cho đổ lụy rơi châu, gieo thảm sầu cho lắm người tâm thành trí
vẹn phải dừng chơn thối bước! Quạ nuôi tu hú cũng còn biết thương, người đi một
đường sao nỡ hại nhau như thế?
Ai toan bứng
gốc phá chồi của nền Ðạo, thì để Thiêng Liêng quyết đoán, mình cứ nắm giữ luật
lệ của Thầy và Ðức Lý Giáo Tông đã thành lập từ buổi ban sơ thì thành Ðạo, vì
luật lệ của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ thể Thiên hành hóa là món binh khí diệt Tà
quyền.
Ðời có thạnh có suy,
Ðạo động tịnh chuyển xây,
Lửa thử vàng, gian nan thử Ðạo.
Ðạo động tịnh chuyển xây,
Lửa thử vàng, gian nan thử Ðạo.
Trong 8 năm
qua rồi, biết bao phen vẹt mây ngút thấy Trời xanh mà cũng lắm lúc xem đất bằng
sóng dậy.
Thầy đã nói
tiên tri rằng: "Chi chi qua Quí Dậu cũng phải cho thành Ðạo, mà trước
khi Ðạo thành thì Tam Thập Lục Ðộng quỉ về phá Tòa Thánh dữ dội lắm, mà trừ an
nội loạn rồi mới thành Thiên cơ".
Ngày nay bảo
tố dữ dội đã qua rồi, Tệ Huynh nhìn thấy mấy em đã bị bao phen khảo đảo, thảm
khổ vô cùng, mà mấy em cũng ngồi vững trong thuyền Bác Nhã của Thầy độ rước thì
Tệ Huynh hết sức vui mừng nên nguyện rằng sẽ đem hết dạ yêu thương mà dìu dắt
mấy em về cùng Thầy cho đến chốn.
Các Ðấng
Thiêng Liêng cũng có nói trước: "Rồi đây Nguyên Nhân sẽ đến rần rần, có
lắm anh hào thành tâm giúp Ðạo".
Cơ Trời mầu
nhiệm, cao sâu, người đâu thấy đặng!
Từ ngày ác
khí nổi lên xông đột, bên bạo tàn trương nanh múa vút, thì bên Thánh Ðức hiền
lương có lắm anh hào đem hết trí thức tinh thần ra công giúp Ðạo.
Tạo Hóa vần xây chuyển
thế,
Âm Dương thiệt khéo đầu cơ.
Âm Dương thiệt khéo đầu cơ.
Khiến cho Tệ
Huynh nhớ lời tiên tri của Bát Nương Diêu Trì Cung hồi ban sơ có dạy rằng:
"Hễ gặp người an
bang tế thế,
Nên quì mà nghênh lấy lễ trọng người.
Cổi thân ra mảnh áo tơi,
Che mưa đở nắng cho đời nguy nan".
Nên quì mà nghênh lấy lễ trọng người.
Cổi thân ra mảnh áo tơi,
Che mưa đở nắng cho đời nguy nan".
Tôn chỉ cao
thượng của Ðại Ðạo Tam Kỳ là lập công quả cùng Thầy lo độ rỗi Nguyên Nhân,
truyền bá chơn Ðạo cho đời biết chữ nhàn là quí, đức là trọng, đặng hết tranh
tranh đấu đấu, lập quyền lấn thế nhau, báng sán nhau, hại sanh chúng nguy nan
đời đời kiếp kiếp.
Từ hai mươi
năm nay, xem trong hoàn cầu thiệt đâu đâu cũng là một cảnh sầu không tỏa ra cho
cùng tận được. Biết bao người bị lượn sóng vô tình vật chất chụp đè trên biển
khổ, ham lo sung sướng cho mảnh thi hài, bo bo vừa lòng tình dục. Ít ai ngó
xuống thương đồng loại cực khổ biết bao! Kể không xiết số người thất nghiệp
truân chuyên, cơm tẻ ngày hai không có, mảnh tơi che cật chẳng lành. Tôi phản
Chúa, người phá Ðạo, trò nghịch Thầy, cha lìa con, vợ xa chồng, huynh đệ bất
hòa, bằng hữu tranh nhau cũng vì mối nhơn luân suy bại, chẳng còn thấy Chúa Thánh
tôi hiền, phụ từ tử hiếu, trông chi gặp tháng Thuấn ngày Nghiêu, nhà nhà lạc
nghiệp thái bình âu ca.
Ðấng Hóa Công
là Ðại Từ Phụ chung của cả nhơn sanh trông thấy hoàn cảnh như vầy cũng đổ lụy
rơi châu với bầy con dại, biết bao thương xót lũ con hoang ra đường gây tội
lỗi, trong mấy muôn năm phải bị luân hồi, trả vay mãi mãi như chóng vần xây. Từ
việc rất lớn lao tới việc tế vi mảy mún, thạnh suy bỉ thới cũng phải chuyển vần
y như luật Trời đã định.
Ðạo Trời đem
tin cứu thế, thức tỉnh nhơn sanh phải tu tâm dưỡng tánh, theo lành lánh dữ cho
khỏi nạn luân hồi vay trả; hằng ngày phải nhớ câu: "Oan gia nghi giải
bất nghi kiết".
Người phải
thương nhau như con một cha. Cả hoàn cầu là đại chánh chung cả nhơn loại, không
hại lẫn nhau, lấy lễ phép mà giao thiệp cùng nhau, lấy công bình mà đối đãi
cùng nhau.
Lo cho Ðạo
hữu trong nền Ðạo có cơ sở làm ăn, biết làm lành là quí.
Que
l'humanité soit une, une comme race, une comme religion, une comme penseé.
Ấy là cuộc
sửa đời lập Tân Thế Giái (Ere nouvelle) của Ðại Từ Phụ đã tuyên ngôn từ buổi
khai Ðạo.
Theo lý
chánh, thật hành chỉ rõ trên đây thì nhiều người trong Ðạo lại chê, còn theo
việc mị mộng ăn ngọ, ăn chuối, tuyệt cốc, tịnh luyện thì ưa, còn nguyên nhân lỡ
bước ai lo?
Trong 8 năm
qua rồi, Tệ Huynh đây và Hiền Ðệ Phạm Công Tắc là Hộ Pháp của ÐÐTKPÐ, hiệp cùng
nhiều Thiên Phong đã để hết tâm thành trí vẹn đặng thi hành cho hoàn tất mấy
điều của Thầy và Ðức Lý Giáo Tông đã dạy bảo.
Ôi, biết bao
phen bị đánh đổ, lắm người trong Ðạo không hiểu tôn chỉ Ðại Ðạo, lại còn biếm
nhẻ nói Tệ Huynh lo việc hữu hình chớ không lo vô vi tịnh luyện.
Bởi vậy mới
rồi đây, Tệ Huynh có đắc lịnh dạy bảo phải chỉ rõ phương diện chánh thể của
Ðạo, xin giải:
Trước đây, Tệ
Huynh có nói Thầy lập Ðạo kỳ nầy phù hạp với dân trí ngày nay đã tăng tiến khỏi
Ngươn Tấn Hóa đến địa vị tối cao, cho nên chủ nghĩa Cựu Luật của các Tôn Giáo
hiện thời không đủ sức kềm chế đức tin của toàn nhơn loại.
Theo chánh
thể của ÐÐTKPÐ, thì có ba Hội, đã định quyền hành đặc biệt:
a).
Thứ nhứt là Hội Nhơn Sanh:
Trong Hội
Nhơn Sanh thì Chánh Phối Sư phái Thượng là Chủ Trưởng.
Hội Viên thì
từ Lễ Sanh đổ xuống Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự, Thông Sự và người Phái Viên thay
mặt cho nhơn sanh.
Trong Nội
Luật Hội Nhơn Sanh của ba Chánh Phối Sư lập ra có chỉ rõ luật lệ. Ấy vậy từ
hàng Tín Ðồ cùng đồng nhi đều có người thay mặt đặng xem xét việc Ðạo rồi đệ
lên Hội Thánh phán đoán.
Vạn vật cũng
có ảnh hưởng trong Hội Nhơn Sanh vì người là Chúa của Vạn vật. Xét kỹ thì Thầy
công bình không xiết kể và lo việc hóa sanh không ngằn không tận.
b).
Thứ nhì là Hội Thánh:
Trong Hội
Thánh thì có Thái Chánh Phối Sư làm Chủ Trưởng. Hội Viên thì từ Giáo Hữu, Giáo
Sư và Phối Sư thiệt thọ có trách nhậm hành chánh đặc biệt.
Trong Nội
Luật Hội Thánh của ba Chánh Phối Sư lập ra có chỉ rõ thức lệ. Hội Thánh có
quyền xem xét các việc của Hội Nhơn Sanh dâng lên và các việc hành chánh trong
Ðạo, rồi đệ lên Thượng Hội.
c).
Thứ ba là Thượng Hội:
Thượng Hội
thì cũng có Nội Luật chỉ rõ thức lệ. Trong Thượng Hội thì Giáo Tông làm Chủ
Trưởng, Hộ Pháp làm Phó Chủ Trưởng. Hội Viên thì có:
·
Thượng
Phẩm
·
Thượng
Sanh
·
Ba
vị Chưởng Pháp
·
Ba
vị Ðầu Sư
·
Và
Ðầu Sư Nữ Phái
Không cần
nhắc thì chư Hiền Hữu Lưỡng Phái cũng hiểu rằng mấy Ðại Thiên Phong kể trên đây
có hành chánh phận sự lớn lao của mình thì mới đặng vào Thượng Hội.
Thượng Hội để
giúp Giáo Tông và Hộ Pháp điều đình cả nền Ðạo lớn lao của Thầy.
Thượng Hội có
quyền xem xét các điều nghị luận của Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh rồi hoặc đệ lên
cho Giáo Tông và Hộ Pháp phê chuẩn hay là trả lại cho Hội Thánh định đoạt lại.
Ba Hội (Thượng
Hội, Hội Thánh, và Hội Nhơn Sanh) toàn nhập lại theo thức lệ rành rẽ thì
gọi là Quyền Vạn Linh, chớ không phải ai muốn lập Hội Vạn Linh, tổ chức
gì theo ý riêng của mình rồi muốn đem ai lên làm Chủ Trưởng tổ chức gì cũng
được.
Như vậy thì
có Luật lệ gì đâu? Mà không Luật lệ thì là không phải Ðạo.
Trên ba Hội,
thì có Giáo Tông và Hộ Pháp.
Giáo Tông làm
chủ Cửu Trùng Ðài thì lo việc Chánh Trị của Ðạo, có Chưởng Pháp và Ðầu Sư ở
trung gian giúp sức điều đình các Luật lệ truyền xuống cho ba Chánh Phối Sư nắm
trọn quyền hành chánh. Giáo Tông có quyền định đoạt trong việc Chánh Trị của
Ðạo.
Hộ Pháp thì
lo giữ Luật lệ của Ðạo cho khỏi sái Thiên Ðiều vì Luật lệ của ÐÐTKPÐ ngày nay
thì thế cho Thiên Ðiều.
Hộ Pháp có
quyền đặc biệt về ân xá cũng như Giáo Tông có quyền Chánh trị vậy.
Hộ Pháp
chưởng quản Hiệp Thiên Ðài, có Thượng Phẩm, Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân
giúp sức.
Giáo Tông
và Hộ Pháp hiệp một là Quyền Chí Tôn.
Tệ Huynh có
thọ lịnh chỉ rõ phương diện Chánh thể của ÐÐTKPÐ của Thầy khai trong buổi Hạ
Ngươn chuyển thế đây y trên đó. Xin chư Hiền Hữu Lưỡng Phái rán nhớ và lo phận
sự, đừng sai luật Ðạo mà bị tội, và mình tuân trọn Luật Ðạo của Thầy thì là món
binh khí diệt Tà quyền giả mị đó.
Tệ Huynh xin
nhắc lời Tuyên ngôn của Ðại Từ Phụ hồi buổi ban sơ, Thầy có nói: "Thầy
lập Ðại Ðạo Tam Kỳ nầy là lập một cái trường công quả, nếu các con đi ngoài
trường công quả ấy thì không trông mong gì về cùng Thầy đặng".
Trường công
quả của Thầy có đôi bên: Một bên vô hình là các Ðấng Thiêng Liêng (Phật, Tiên,
Thánh, Thần) cũng lập công quả trong buổi chuyển thế nầy. Các Ðấng Thiêng Liêng
thường theo một bên chúng ta đặng ám trợ chúng ta về phần vô vi.
Còn các việc
hữu hình tại thế là các việc phải có thi hành như chúng ta bây giờ đây mới làm
đặng thì về phần chúng ta phải lo làm rồi có các Ðấng Thiêng Liêng ám trợ.
Thí dụ như đi
độ rỗi nhơn sanh phải nói Ðạo cho người nghe, như phải lập mấy cuộc để giúp thế
đang nguy nan, như nhà trường dạy kẻ cô độc học, nhà thương, nhà dưỡng lão cùng
các nghề nghiệp cho đạo hữu có phương làm ăn đặng cơm tẻ ngày hai, có áo quần
che thân ấm cật.... thì chúng ta phải lo hết rồi các Ðấng Thiêng Liêng ám trợ
cho thành tựu.
Nếu chúng ta
làm biếng không làm công quả chi cho Ðạo bên hữu hình thì các Ðấng Thiêng Liêng
theo mình không lập công quả được thì tội trọng về phần mình chịu lấy.
Từ hồi tạo
Thiên lập Ðịa tới ngày nay trong mỗi kỳ khai Ðạo không có thời kỳ nào mà chính
mình Thầy là Chủ Tể Càn Khôn Thế Giới xuống mà lập ra, không có một Tôn Giáo
nào đặng một vị Ðại Tiên là Ðức Lý Thái Bạch lãnh làm Giáo Tông như ngày nay
vậy.
Tệ Huynh đây
là lãnh về phần xác thay thế cho Ngài đặng lo làm các việc hữu hình tại thế cho
Ngài, rồi ở trong có Người ám trợ.
Tệ Huynh xin
chỉ rõ quyền hành lớn lao của Ðức Lý Ðại Tiên Thái Bạch Kim Tinh cho mấy em rõ:
Ánh Thái Cực biến sanh
Thái Bạch,
Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu.
Quyền năng dâng thửa Thiên Triều,
Càn Khôn Thế Giái dắt dìu Tinh Quân.
Hiện Kim Tinh trọng trách Linh Tiêu.
Quyền năng dâng thửa Thiên Triều,
Càn Khôn Thế Giái dắt dìu Tinh Quân.
Tinh Quân thọ sắc thuở
Phong Thần,
Cho đến Ðường Triều mới biến thân.
Thái Bạch Kim Tinh đương trị thế,
Trường Canh Trích Tử đến thăm trần.
Ðộng Ðình thi rượu đong muôn đấu,
Bồng Ðảo câu Tiên nắm một cần.
Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,
Tam Kỳ độ rỗi các Nguyên Nhân.
Cho đến Ðường Triều mới biến thân.
Thái Bạch Kim Tinh đương trị thế,
Trường Canh Trích Tử đến thăm trần.
Ðộng Ðình thi rượu đong muôn đấu,
Bồng Ðảo câu Tiên nắm một cần.
Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,
Tam Kỳ độ rỗi các Nguyên Nhân.
Ngài nói
rằng: "Hễ Ðạo trọng thì chư Hiền Hữu trọng, vậy thì chư Hiền Hữu biết
mình trọng mà lo sửa vẹn người đời.
Từ đây Lão
hằng gìn giữ cho chư Hiền Hữu hơn nữa. Nếu thoảng Lão ép lòng cầm quyền thưởng
phạt phân minh, là cố ý muốn giá trị chư Hiền Hữu thêm cao trọng hơn nữa. Vậy
Lão xin đừng để dạ phiền hà nghe."
Xin chư Hiền
Hữu Lưỡng Phái ghi nhớ mấy lời châu ngọc ấy đặng sửa mình. Hết lòng cảm tạ mấy
em và chư Tôn có công mệt mỏi ngồi nghe mấy lời tôi cạn tỏ rồi đó.
Hết dạ khẩn
cầu cho nền Ðạo chóng hoằng khai.
HẾT.
MỤC LỤC BNS HBCS 08 (15. 03. 2018).
1/- Nhà nước Việt Nam diệt Đạo Cao Đài. Tr 01.
2/- Đức Hộ Pháp thuyết về xa thơ.
3/- Chương trình hành đạo ngày 01-04-1933.
4/- Đức Quyền Giáo Tông thuyết đạo:
Vía Ðức Phật Thích
Ca Về Phương Diện Chánh Thể Ðạo.
HẾT.