Người ta ghi nhận “có đến nửa triệu quân dân Cao nguyên di
tản về Nha Trang, một tỉnh ven biển Miền Trung của Việt Nam Cộng Hòa, phòng
tuyến cuối cùng của Quân Đòan II, Quân Khu II, mà sau quyết định của ông Thiệu,
Quân Đòan II tan vỡ nhanh như một giấc chiêm bao, mới đầu hôm sớm mai mà Quân
Đòan đã bị tiêu hủy trong nháy mắt. Hành lang phía tây Sài Gòn bị đe dọa trầm
trọng… ”(27).
Trong khi đó ở Huế, quân dân rút
về Đà Nẵng, rồi tranh nhau tìm đường ra biển. Một số khác theo đường bộ tháo
chạy về phía nam như một “Đại lộ kinh hoàng”. Vì
trên đại lộ ấy, nhiều cảnh đau lòng đã diễn ra. Người ta đã phải chứng kiến
cảnh tranh sống, sát hại nhau, nạn thổ phỉ cướp bóc, hãm hiếp công khai giữa
thanh thiên bạch nhật. Mọi giá trị nhân bản, đạo đức bị chà đạp; tình huynh đệ
chi binh, nghĩa đồng bào trở thành xa lạ trong cuộc “rút lui chiến thuật ” đầy hỗn
lọan này. Thảm cảnh này cũng diễn ra tương tự ở nhiều tuyến “Rút
lui chiến thuật ” khác trên các nẻo đường đất nước. Mọi người tháo
chạy về phía tự do, vì lúc ấy có lời đồn đãi rằng “Đã có thương lượng cho Cộng Sản Bắc Việt
một nửa lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa mà không chống cự… ”
Quả thực đến đầu Tháng 4 năm
1975, một nửa lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa đã bỏ ngỏ cho Cộng quân đến tiếp quản.
Tốc độ rút quân quá nhanh đến độ đối phương không kịp tiếp thu, không đủ người
và thực ra cũng không cần đủ người để giữ đất. Trong vòng vài tuần, 150.000
binh sĩ VNCH đã tự hủy và mất khả năng chiến đấu. Thế quân bình chiến lược hoàn
toàn bị đảo ngược. Chế độ VNCH ở miền Nam Việt Nam lâm nguy! Mặc dầu thực tế
diễn ra đúng với ý muốn của Hoa Kỳ, nhưng Tổng thống Gerald Ford lúc đó vẫn làm
ra vẻ quan tâm đến việc cứu vớt số phận đã được an bài của VNCH. Ông Ford đã đề
nghị ngân khoản viện trợ quân sự bổ sung 700 triệu Mỹ kim trang bị và lập cầu
không vận khẩn cấp chuyển đồ tiếp tế cho Quân Lực VNCH. Hành động này của Tổng
thống Ford chẳng khác chi hành động của một nhà đạo đức giả, một bác sĩ vô
lương tâm, biết rằng con bệnh sắp chết và cái chết ấy có một phần trách nhiệm
do mình gây ra, nhưng bề ngoài vẫn tỏ ra hết lòng muốn cứu sống con bệnh. Dẫu
sao, đó cũng chỉ là những lời tuyên bố để che đậy một ý đồ cũng chẳng thay đổi
được thực tế.
Thực tế lúc đó là, ông Bùi Diễm,
Đại sứ VNCH tại Mỹ, đã từ Washington trở về tuyên bố một cách tuyệt vọng, rằng “Không
còn hy vọng gì về phía Mỹ nữa, chúng ta phải tính đến các điều kiện thực tế… ”.
Thực tế là một nửa nước đã mất, người ta chỉ còn trông chờ vào một cứu tinh.
Nhưng nào còn ai dám làm cứu tinh, khi người Mỹ đã bỏ cuộc. Vậy chỉ còn trông
chờ một phép lạ, mà phép lạ thì siêu hình khó xẩy ra. Vậy chỉ còn cách chấp
nhận thực tế mà tờ New York Time số ra ngày 1-4-1975 đã phản ánh tổng quát “Quân
Bắc Việt đã tràn lên khắp đất nước và chỉ gặp vài kháng cự lẻ tẻ, lãnh thổ bị
chiếm là do bỏ cuộc thực sự… ”.
Theo sự đánh giá của một nhân
viên cao cấp CIA có mặt vào những giờ phút hấp hối của chế độ VNCH thì “Lúc
này, để bảo vệ Sài gòn, quân Nam Việt đang tơi tả, chỉ còn tương đương sáu sư
đòan, đương đầu với 18 sư đòan quân Bắc Việt, một đa số áp đảo. Điều mà Nam
Việt Nam hy vọng thực hiện là lập một phòng tuyến án ngự cuối cùng chạy từ một
phần đất Cao nguyên xuống tới bờ biển miền Trung, xuyên ngang thị trấn Xuân
Lộc… ” (28).
Thế nhưng tình hình thực tế ngày
càng nguy kịch. Trong lúc lâm nguy người ta lại nói nhiều đến giải pháp được Mỹ
khuyến khích từ lâu, là thương lượng với CS để thành lập một chính phủ liên
hiệp ba thành phần. Đây cũng là giải pháp tương tự từng được qui định trong
Hiệp Định Genève 1954, nhưng đã không được các bên thực hiện. Đó cũng là giải
pháp bị bác bỏ năm 1965 vì đường lối chiến tranh đã được lựa chọn. Nay một lần
nữa giải pháp được chọn lựa trong Hiệp Định Paris về chấm dứt chiến tranh lập
lại hòa bình cho Việt Nam năm 1973. Thực ra, đây là một giải pháp chỉ có giá
trị pháp lý trên văn bản có tính nguyên tắc, thực tế thâm tâm người Mỹ không
muốn nó được thực hiện, vì họ không còn muốn dính líu thêm nữa mà chỉ muốn cắt
bỏ chế độ VNCH càng sớm càng tốt. Vì rằng, để cho chế độ này tồn tại dưới bất
cứ hình thức nào đều làm cản trở tiến trình đi vào thế chiến lược quốc tế mới
của Mỹ. Điều này cũng phù hợp với tham vọng của CSBV, không muốn thương lượng
trong điều kiện hiện lại quá thuận lợi, mà chỉ cần ông Thiệu bị lật đổ bằng
chính người của ông ta. Họ muốn chế độ VNCH sụp đổ trước khi họ đến tiếp quản
mà không phải tàn phá giết chóc nhiều. Họ muốn một sự sụp đổ từ từ để còn cho
họ nguyên vẹn những chiến lợi phẩm, đúng ra là mọi tài sản của chế độ bị sụp đổ
không do sức mạnh chiến đấu của họ.
Đúng như lòng mong muốn của CS Hà
Nội, ông Thiệu đã phải từ chức trước áp lực quần chúng và các phe phái tranh
giành quyền lực dưới sự đạo diễn cùa CIA. Ngày 21-4-1975, bằng một bài diễn văn
gay gắt ông Thiệu đã tố cáo sự phản bội của Mỹ, được truyền đi trên các phương
tiện truyền thông đại chúng, phương tiện mà truớc đó người Mỹ đã thiết lập cho
chế độ VNCH làm công việc tuyên truyền lôi kéo những con tim, khối óc và cả
mạng sống của nhân dân Miền Nam Việt Nam đi vào chiến lược chống cộng bảo vệ
chế độ và phần đất tự do miền Nam VN như một “ tiền đồn thế giới tự do ”
ngăn chặn sự bành trướng của cộng sản quốc tế của Mỹ! Đây là những lời tố cáo
muộn màng của ông Thiệu:
“Họ bỏ
rơi chúng tôi. Họ bán rẻ chúng tôi. Họ đâm sau lưng chúng tôi. Một nước đồng
minh lớn đã không làm tròn lời hứa với với một nước đồng minh nhỏ… ” (29). Đây
lại một lầm lẫn lớn, cho đến lúc này ông Thiệu vẫn chưa nhận ra thực trạng này:
Chưa bao giờ VNCH được Mỹ đối xử như một đồng minh. Rồi ông Thiệu hằn học oán
trách người Mỹ: “Các
ông bỏ chạy để mặc chúng tôi làm cái việc mà các ông làm không xong. Chúng tôi
không có gì hết mà các ông lại muốn chúng tôi hoàn
thành điều mà các ông không làm nổi... Khi ký Hiệp định hòa bình, Mỹ đã thỏa
thuận sẽ thay thế vũ khí trên căn bản một đổi một. Nhưng Mỹ không giữ lời. Ngày
nay còn ai có thể tin vào lời hứa hẹn của Mỹ nữa hay không?... ”
(30)
Ngày 26 tháng 4 năm 1975, nghĩa
là năm ngày sau khi Tổng thống Thiệu từ chức, Quốc Hội Sài Gòn đã khởi đầu bằng
một thông báo, theo đó người được Tổng thống Thiệu chỉ định nắm quyền tổng
thống VNCH (theo
Hiến Pháp ) là Phó Tổng thống Trần Văn Hương, nay được Quốc hội ủy
nhiệm quyền tuyển chọn một người thay thế ông trong chức vụ Tổng thống VNCH.
Trên căn bản thông báo này, quyền Tổng thống Trần Văn Hương đã chỉ định Đại
tướng Dương Văn Minh làm Tổng thống VNCH (ngoài dự liệu của Hiến Pháp). Ngày
28-4-1975, Tướng Minh nhậm chức, cử giáo sư Vũ Văn Mẫu vào chức vụ thủ tướng
chính phủ, đứng ra thành lập nội các hòa giải, thay thế chính phủ chống cộng
cuối cùng của ông Nguyễn Bá Cẩn mới được thành lập trước đó một tuần.
Như vậy là Tướng Dương Văn Minh,
người hùng của cuộc đảo chánh năm 1963, đưa đến sự cáo chung nền Đệ nhất VNCH,
nay lại được Mỹ tuyển chọn đúng ý Việt cộng làm nhiệm vụ khai tử nền Đệ nhị
VNCH mà chính ông đã góp phần tạo dựng.
Mặc dầu hai ông Tổng thống Dương
Văn Minh và Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đã cố gắng đơn phương giương cao ngọn cờ “Hoà
giải và hòa hợp dân tộc ”, với một số động tác mời chào giả tạo, như
ra thông cáo giả vờ đuổi hết người Mỹ, rằng trong vòng 48 giờ đồng hồ, người Mỹ
cuối cùng phải rời khỏi Việt Nam; ra quyết định thả hết các tù chính trị (tức tù
Việt cộng )… Nhưng tất cả đã muộn rồi, CSBV đã cảm thấy đang ở thế
thượng phong, chẳng cần “hòa giải hòa hợp ” với ai
nữa. Vì “hòa
giải hòa hợp dân tộc” vốn chỉ là chiến thuật thường được CS sử
dụng khi chưa đủ sức thanh toán đối phương, giành thắng lợi tối hậu mà thôi.
Sau đây là một đọan tường thuật
của một nhà văn Việt Cộng về những giây phút cuối cùng của cái “Chính
phủ hòa giải hòa hợp ” vào giờ thứ 25 của cuộc chiến:
“… 11 giờ 30 ngày 30 tháng 4 năm 1975
Chiếc xe
tăng tiến vào xô đổ cánh cửa sắt của Dinh Độc Lập. Từ trên xe nhẩy xuống, một
tổ chiến sĩ Quân Giải phóng trẻ măng mặc đồng phục lá cây, cầm lá cờ mầu đỏ
xanh có ngôi sao vàng, lao nhanh về phía dinh.
Những
thành viên của chính phủ Dương Văn Minh mới nhận chức ngày hôm trước về tề tựu
tại phòng chính của dinh Độc Lập, đứng dậy khi những người cán bộ của Quân đòan
II, mặt sạm khói súng và bụi đường xa bước vào. Họ đã tiến quân qua nhiều thành
phố suốt dọc bờ biển miền Trung tới đây.
Dương Văn
Minh nói:
Toàn thể
chính phủ VNCH đều có mặt đợi các ngài đến để bàn giao chính quyền.
Một cán
bộ nói:
Các ông
còn gì nữa để bàn giao! Các ông phải đầu hàng vô điều kiện!” (31).
Khi đọc những lời tường thuật
trên đây, người bàng quan không khỏi cảm thấy tội nghiệp cho Tướng Dương Văn
Minh, khi thấy lịch sử dường như đã luôn chọn ông làm công việc “Khai sơn phá
thạch”, nôm na là làm công việc lót đường để cho kẻ khác gặt hái thành quả.
Trong khi đó một phóng viên của
hãng thông tấn AP ở lại Sà igòn đến phút chót đã kể lại:
“Không có một tiếng súng nào, hàng trăm
người Sài gòn cũng như tôi đứng há miệng nhìn đoàn xe tăng ngày càng nhiều của
cộng sản tiến vào thành phố. Đến trưa, mọi chuyện đều xong. Trong suốt 13 năm
viết về chiến tranh Việt Nam, tôi không bao giờ tưởng đến chuyện nó kết thúc
theo lối này. Tôi hình dung phải có một cuộc mặc cả về chính trị tương tự như
đã xẩy ra ở Lào mười năm về trước. Hoặc là một trận đánh theo kiểu Armageddon ở
Châu Âu trong Thế Chiến Hai, mà kết cuộc là thành phố bị tan nát. Chuyện đầu hàng
là điều hoàn toàn tôi không ngờ tới... ” (32)
Một viên chức CIA đã rời Việt Nam
trong toán CIA cuối cùng vào ngày 30-4-1975, thì đã ghi lại những hình ảnh cuối
cùng của cuộc chiến như sau:
“Chiếc máy bay trực thăng đã bắt đầu rời
khỏi Tòa Đại Sứ. Người xạ thủ ở đuôi máy bay đang cúi rạp người trên súng của
mình. Máy bay vòng trên thành phố. Trong khỏanh khắc tôi có thể nhìn thấy bóng
dáng của một trong những cửa sổ tiệm rượu Mini Bar, một tiệm nổi tiếng vào bậc
nhất ở Sàigòn, nơi biết bao chàng lính Mỹ đã mất sạch cả cơ nghiệp cùng với sự
ngây thơ của mình. Và rồi chiếc máy bay ngoặt lại, hướng về phía Nam, bay qua
Biên Hòa, thấy toán xe Bắc Việt đèn sáng trưng đang uốn mình trên con đường vào
Biên Hòa… Trong phút chốc, kiến trúc khổng lồ mầu xám của một hàng không mẫu
hạm Hoa Kỳ đã bao lấy chúng tôi như một cái kén khổng lồ bằng kim khí… ”
(33)
Một ngày trước khi Sài gòn rơi
vào tay Hà Nội (29-4-1975), Đại sứ Mỹ cuối cùng Martin đã bình tĩnh ngồi ở bàn
làm việc trong tòa Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài gòn đợi lệnh từ Hoa Thịnh Đốn trả lời
yêu cầu của ông xin gia hạn di tản. Nhưng từ Tòa Bạch Ốc đã ban ra lệnh cuối
cùng:“ Tổng
thống Hoa Kỳ lệnh cho Đại sứ Martin phải rời đi bằng chiếc máy bay này ”.
Đó là chiếc máy bay CH-46 được gởi đến đón Martin mang tên “Lady
Ace 09 ” (32 bis).
Như vậy là cuộc chiến tranh Việt
Nam đã chấm dứt với thái độ phủi tay không thương tiếc của Hoa Kỳ, người khởi
đầu và cũng là người kết thúc sinh mạng một chế độ công cụ của mình. Micheal
Maclear, một nhà báo Mỹ trong cuốn “Việt Nam, cuộc chiến tranh mười nghìn
ngày ” đã ghi lại cảm tưởng của Martin đối với cuộc chiến kết thúc
là “thấy
nhẹ cả người ”. Đó là cuộc chiến tranh chưa bao giờ được chính thức
gọi là chiến tranh, dù nó là cuộc chiến tranh dài nhất của Mỹ đã chấm dứt. Nó
là “một
cuộc xung đột ”, “một sự dính líu ”, “một
kinh nghiệm ” và thất bại của nó sẽ được các sử gia có thể phán xét,
không còn là mối bận tâm của nhân dân Hoa Kỳ. Rất đơn giản, họ nghĩ là họ đã
chiến đấu, hoặc người của họ đã chiến đấu, thế là đủ. Từ hai năm về trước
(1973-1975), họ đã thực hiện được một nền hòa bình cho họ tại Việt Nam. Hầu hết
người Mỹ đã cảm thấy “một nền hòa bình trong danh dự ” đã đạt được như
người ta bảo. Giờ đây, họ đang nhìn với vẻ bàng quan chán ngắt, có đôi chút
sửng sốt, song sự thật không phải hoàn toàn bị bất ngờ. Tám năm chiến đấu của
Mỹ, chỉ trong nhiều tuần đã trở thành vô nghĩa. . .
Vô nghĩa ư? - Thực ra, cuộc chiến
tranh Việt Nam kết thúc như thế đã chỉ có thể là vô nghĩa và vô ích với nhân
dân Mỹ, khi mà họ đã phải gánh chịu mọi chi phí cho cuộc chiến, với cái giá máu
xương của 58.000 binh sĩ con em của họ phải bỏ mạng tại Việt Nam, mà vẫn không
thực hiện được mục đích cao cả là giúp nhân dân Việt Nam bảo vệ được chế độ dân
chủ và phần đất tự do ở Miền Nam Việt Nam. Nhưng nó vẫn có ý nghĩa và lợi ích
đối với chính quyền Mỹ, khi sự kết thúc chiến tranh đến vào lúc mà các mục tiêu
chiến lược của họ đã đạt được qua cuộc chiến tranh này, mở ra một thời kỳ đầy
triển vọng sau chiến tranh cho công cuộc làm ăn mới của giới tư bản Mỹ ở vùng
này, trong khung cảnh một thế chiến lược toàn cầu mới.
Riêng đối với nhân dân Việt Nam,
cuộc chiến tranh kéo dài trên 20 năm (1954-1975) kết thúc như thế thì quả là vô
nghĩa và tàn hại. Và sự chấm dứt cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn này, vừa
là nỗi đau, vừa là niềm vui chung cho cả dân tộc Việt Nam. Là nỗi đau cho nhân
dân Miền Bắc vì đã từng phải sống khổ cực, hy sinh chiến đấu cho một chiêu bài
giả hiệu “Độc
lập dân tộc, chống đế quốc, giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước trong hòa
bình, ấm no, hạnh phúc… ”. Cũng là nỗi đau của nhân dân yêu chuộng
tự do dân chủ ở Miền Nam Việt Nam, vì đã ngay tình và nhiệt thành lao vào một
cuộc chiến “bảo
vệ chế độ tự do dân chủ ”. Từ nỗi đau chung này, nhân dân hai miền
Bắc-Nam Việt Nam cùng có chung một mối hận đối với những kẻ cầm quyền trên cả
hai miền Nam-Bắc, từng là công cụ đắc lực một thời cho ngọai bang, đã xô đẩy
nhân dân hai miền vào một cuộc chiến tàn hại và vô nghĩa. Người dân tự hỏi: Tại
sao cũng trong gọng kềm của của cuộc chiến tranh ý thức hệ toàn cầu, Bắc Hàn và
Nam Hàn đã có thể cùng tồn tại để chờ cơ may thống nhất một cách hòa bình.
Trong khi Việt Nam thì đi đến thống nhất bằng một cuộc chiến cốt nhục tương
tàn, anh em một nhà tàn sát lẫn nhau và tàn phá tan hoang đất nuớc?
Công tội của các tập đoàn lãnh
đạo công cụ tay sai ngoại bang trong quá khứ cũng như hiện tại, mai này sẽ được
lịch sử phán xét công minh. Dẫu sao, cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn chấm
dứt cũng nên coi là một niềm vui chung của cả dân tộc. Vì đây là cơ may mới cho
đất nước vươn lên trong thời kỳ các nước giầu tỏ ra thực tâm muốn giúp các nước
nghèo đi vào thế ổn định để phát triển, trong nỗ lực thiết lập một nền trật tự
thế giới mới hay là một hệ thống kinh tế quốc tế mới. Đó là chiến lược “Toàn
cầu hóa của các cường quốc ”: Toàn cầu hóa về chính trị bằng một chế
độ dân chủ và toàn cầu hóa về kinh tế với một nền kinh tế thị trường. Trong
khung cảnh ấy, các quốc gia lớn nhỏ cạnh tranh, cùng tồn tại hòa bình và các
bên đều cùng có lợi (ít hay nhiều ).
Thiện Ý
Houston,
tháng 4 năm 2018
*Ghi chú: Trích
từ “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới” của Thiện Ý.
- Từ (27)
đến (33 bis): Theo “The Ten Thousand Days War” của Michael Maclear, nhà báo Mỹ
được giải thưởng Pulitzer nhờ những bài viết về chiến tranh Việt Nam.
- Xin vào: luatkhoavietnam.com , mục “Diễn Đàn”, tiểu mục “Tác
giả & Tác phẩm” để đọc thêm trong tài liệu nghiên cứu lý luận “Việt Nam
Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới”, tiểu mục “Phỏng vấn & Hội luận” để nghe
Đài VOA phỏng vấn tác giả Thiện Ý năm 1995 về tác phẩm này.