BNS HBCS SỐ 10.
Ý
NGHĨA TAM THÁNH.
Hội Thánh chưa
kiểm duyệt.
Đứng
tại cửa chính của Tòa Thánh Tây Ninh nhìn thẳng vào bên trong có một bức họa
cao 2,80m rộng 1,9m. Tên đầy đủ là Tam Thánh ký Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước (gọi
tắt là Tam Thánh ký Hòa Ước). Góc dưới bên phải có ghi: Tòa Thánh 1947. Họa sĩ
Lê Minh Tòng. Bức họa được bố trí tại Tịnh Tâm Điện.
Đứng
đối diện với bức họa bên tay phải có 02 bia, bên tay trái có 02 bia. Nội dung
các bia ghi tóm lược về Tam Thánh.
Hai
bia bên tay phải viết bằng hai ngôn ngữ, bia bên trên viết bằng chữ Quốc Ngữ,
bia bên dưới viết bằng Anh Văn.
Hai
bia bên tay trái viết bằng 03 ngôn ngữ. Bia bên trên viết bằng 02 ngôn ngữ: Nho
Văn và Pháp Văn. Bia bên dưới viết bằng Đức Văn. Như vậy có 04 bia và 05 ngôn
ngữ ghi lại những nét chính yếu về Tam Thánh. (Xin xem chi tiết về Tam Thánh
tại phụ đính 01.)
Nguyên
văn bia tiếng Việt như sau:
TRUYỆN KÝ TƯỢNG
TAM THÁNH.
Cụ Nguyễn-Bỉnh-Khiêm
là nhà tiên tri danh tiếng lớn ở đời Mạt-Lê, thi đậu Trạng-Nguyên tước vị là
Trình-Quốc-Công tục gọi Trạng-Trình. Giáng cơ tự xưng là Thanh-Sơn Đạo-Sĩ, tức
là vị sư phó của Bạch-Vân-Động.
Cụ Victor Hugo,
nhà thi gia trứ danh của Pháp Quốc. Giáng cơ tự xưng là Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn,
tức là đệ tử của cụ Nguyễn-Bỉnh-Khiêm ở Bạch-Vân-Động.
Cụ Tôn-Dật-Tiên
đại cách mạng gia nước Trung-Hoa, nhũ danh là Tôn-Văn. Giáng cơ tự xưng là
Trung-Sơn Chơn-Nhơn, tức là đệ tử của cụ Nguyễn-Bĩnh-Khiêm ở Bạch-Vân-Động.
Ba vị
Thánh Nhơn trên đây là thiên sứ đắc lịnh làm hướng đạo cho nhơn loại để thực
hành Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước. (hết).
Như
vậy Tam Thánh là Trạng Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm, đại văn hào Victor Hugo và nhà
đại cách mạng Tôn Văn.
1/- Ba vị nầy
không nằm trong giới tu hành vậy tại sao thành Thánh?
Ba
vị không nằm trong giới tăng lữ nhưng được phong thánh là do nguyên tắc dâng
công đổi vị của Tam-Kỳ Phổ-Độ. Dâng công đổi vị là sao? Là căn cứ vào công
nghiệp của mỗi người được nhân loại nhìn nhận như thế nào thì Đức Chí Tôn căn
cứ vào đó mà ban cho địa vị tương ứng.
Tam-Kỳ
Phổ-Độ là cơ tận độ và độ tận nên mới có nguyên tắc dâng công đổi vị. Không
phân biệt sĩ, nông, công, thương, binh, tăng hay thượng lưu, trung lưu, hạ lưu
hễ biết lập công thì đạt vị. Những người đã bỏ xác phàm trước khi có Tam-Kỳ
Phổ-Độ vẫn được Đức Chí Tôn xét công ban thưởng. Đấng cầm cân công bằng đem cân
công, tội trong mỗi kiếp sinh bù trừ xem kết quả là tương ứng với phẩm nào thì
đem phẩm ấy ban cho. Cho nên không riêng gì ba vị trên mà có hằng hà sa số vị
cả Nam và Nữ cũng được ban thưởng.
Ngoài
ba vị chúng ta còn biết bà Đoàn Thị Điểm cũng nhờ hưởng được nguyên tắc dâng
công đổi vị mà từ chổ phải ngồi ở Thanh Tịnh Đại Hải Chúng (Phong Đô) mấy trăm
năm, đến khi Đức Chí Tôn mở cơ đại ân xá bà mới được Thất Nương Diêu Trì Cung
đến độ. Nhờ vậy bà viết tác phẩm Nữ Trung Tùng Phận để lập công. Nhờ công đó
được nhập vào Bát Quái Đài. Sau đó đắc lịnh viết một số bài kinh trong phần Thế
Đạo.
2/- Tại
sao lại chọn ba vị đại diện cho nhân loại?
Đức
Chí Tôn chọn ba vị đại diện cho nhân loại ký Đệ Tam hòa ước bởi lẽ:
Ngài
Trạng Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm sanh ở phương Đông, phụng sự cho nhân loại theo
quan điểm, tư tưởng phương Đông. Ngài đại diện cho Đông phương triết học. Ngài
viết chữ Nho, dịch ra quốc ngữ: Thiên thượng Thiên hạ - Bác ái Công bình. Viết theo hàng dọc, từ trên xuống dưới.
Ngài
Victor Hugo sanh trưởng ở phương Tây, phụng sự cho nhân loại theo quan điểm và
tư tưởng phương Tây. Ngài đại diện cho Tây phương khoa học. Ngài viết DIEU
et HUMANITÉ - AMOUR et JUSTICE. (Thượng
Đế và nhân loại – Tình thương và Công lý.) Viết theo hàng ngang từ trái qua
phải.
Ngài
Tôn Trung Sơn sanh ở phương Đông, sang phương Tây học và trở về làm cuộc cách
mạng Tam dân cho dân tộc Trung Hoa. Trong Tam Thánh Ngài là người sống trong
hai nền văn hóa Đông-Tây nên là biểu tượng cho sự dung hòa cả hai nền văn minh
phương Đông và văn minh phương Tây.
Trong
bức tranh Tam Thánh có 04 vầng hào quang. Riêng ngài Tôn Dật Tiên có 02 vầng:
trên đầu và nghiên mực. Điều đó thể hiện rằng nghiên mực của Ngài là sự kết
tinh của trí tuệ, tư tưởng Đông-Tây. Cách viết hàng dọc và hàng ngang hiệp lại
là đạo. Dù cho viết theo cách nào cũng phải nhờ vào nghiên mực, cho nên nghiên
mực còn thể hiện cho cái dụng của đạo.
Ngài
cầm nghiên mực thể hiện rằng thời Tam-Kỳ Phổ-Độ là buổi dung hòa cả hai nền văn
minh. Dù cho phương Đông (cụ Trạng Trình, viết ngôn ngữ phương Đông, chữ Nho)
hay phương Tây (cụ Victor Hugo, viết bằng ngôn ngữ phương Tây, Pháp Văn) muốn
tạo ra giáo án, sử chương để xây dựng xã hội bác ái, công bằng cũng phải dung
hòa cho phù hợp. Nếu không có sự dung hòa (nghiên mực) thì cả Đông phương hay
Tây phương cũng không thế gì có giáo án hay sử chương.
Đi
sâu vào thể pháp ta thấy Ngài Tôn Trung Sơn đứng cạnh Ngài Victor Hugo cho thấy
Tây phương là nơi tích tụ để đi đến sự dung hòa. Đồng thời bia ký bên tay trái
có 03 ngôn ngữ thể hiện sự đa dạng hơn 02 ngôn ngữ. Thể pháp bố trí vị trí đứng
của Tam Thánh phù hợp với 02 thể pháp khác là Tây Lang, Đông Lang và Đông Khán
Đài, Tây Khán Đài.
Đức
Chí Tôn lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là lập một nền văn minh mới cho nhân loại.
Nền văn minh đó có 02 đặc điềm: Thứ nhất: Có sự cộng hưởng của người phàm và
các Đấng Thiêng Liêng cao trọng. Con người bị giới hạn bởi thời gian và không
gian nên không thể am hiểu hết, vì vậy phải tìm học với các Đấng Thiêng Liêng
về tổ chức tôn giáo, pháp luật, giáo lý, lễ nghi, nghĩa là thể pháp và bí pháp.
Thứ hai: Nền văn minh mới được lập nên trong thời năm châu chung chợ, bốn biển
chung nhà hay còn gọi toàn cầu hóa nên phải có sự dung hòa, cộng hưởng hai nền
văn minh Đông và Tây. Tổng hợp lại gọi là văn minh tâm linh.
Ba
vị thánh nhơn có công nghiệp riêng phù hợp với việc xây dựng xã hội mới nên
được Đức Chí Tôn chọn làm thiên sứ, làm hướng đạo
cho nhơn loại để thực hành Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước.
Tại sao lại bố trí
Tam Thánh ở Tịnh Tâm Điện?
Theo
khoa học ngày nay mỗi người đều có luồng điện sinh học. Khi suy nghĩ thì bộ não
phát sóng. Theo đó mà luận thì khi tâm hồn thanh tịnh sóng của bộ não vượt lên
và các tần số phát ra phù hợp với tần số của các Đấng Thiêng Liêng cao trọng.
Nhờ đó mà có những hiểu biết chính xác, sâu xa.
Tịnh
Tâm Điện có bố trí hai tủ hành hương để nhắc khách trần rằng: Muốn tâm hồn được
thanh tịnh thì phải bớt đi tiền tài, vật chất, phải sử dụng nó để phục vụ cho
chính mình và nhân loại chứ không phải làm nô lệ cho tiền tài danh vọng. Tiền
tài, danh vọng là phương tiện để thực thi tam lập chớ chẳng phải là mục đích
hay cứu cánh của đời người.
Bên
trong Tịnh Tâm Điện là nơi chức sắc, chức việc, đạo hữu thực hành các nghi lễ
tôn giáo. Đó là xã hội của tôn giáo. Bên ngoài của Tịnh Tâm Điện là Đại Đồng
Xã, là xã hội với thiên hình vạn trạng nhưng vẫn có khuôn thước, qui củ chuẩn
thằng. Tam Thánh là các bậc trí thức có tâm đạo là hiền tài là các vị có kiến
thức tri tâm mới viết nên giáo án, sử chương xây dựng xã hội bác ái – công
bằng.
Thể
pháp cũng thể hiện rằng hiền tài là gạch nối giữa tôn giáo và xã hội.
Khi
Đức Hộ Pháp đắc lịnh xây dựng Tòa Thánh Tây Ninh thì được lịnh làm một khung
hình bằng xi măng cao 2,80m và rộng 1,90m tại vị trí đó. Mãi đến năm 1947 Hiền
Tài Lê Minh Tòng từ hải đảo về Tòa Thánh Đức Lý Giáo Tông mới dạy vẽ Tam Thánh.
Khi vẽ xong Đức Hộ Pháp chấp thuận và trấn thần vào lúc 8 giờ sáng ngày
10-7-Mậu Tý (dl 11-8-1948). Trấn thần có nghĩa là thỉnh chơn linh của từng vị
vào trong ảnh.
Khi
trấn thần Đức Hộ Pháp có giải thích rằng: Trước tượng ảnh không có bàn thờ chi
hết vì chơn linh đã nhập vào đó như người sống vậy. Tam Thánh biểu hiệu cho chủ
nghĩa đại đồng của Đạo Cao Đài, mở đầu một giai đoạn tiếp dẫn chúng sanh vạn
quốc vào cửa Đạo.
Nhiều
vị tham gia công quả xây dựng Tòa Thánh kể lại rằng: Các vị thấy phần lầu
chuông, lầu trống nhô ra ngoài đường mới lấy làm lạ và thỉnh giáo. Đức Hộ Pháp
giải thích rằng làm Tòa Thánh nhô ra đường như thế cho ai đi qua cũng thấy và
biết đường để tu. Còn như không tu sau nầy cũng không thể chối rằng Đạo bày ra
giữa đường mà tại họ không chịu tu.
Điều
nầy rất thực tế và phù hợp với nhiệm vụ của Tam Thánh, của trí thức có đạo tâm
(hiền tài là cầu nối giữa đạo và đời) và phù hợp luôn với chuyện con hạc từ Trí
Huệ Cung bay ra thể hiện cho Thánh lâm phàm làm nhiệm vụ phổ độ buổi Tam kỳ.
Đi
sâu vào thể pháp ta thấy rằng phần tôn giáo là dễ thấy cho nên thể hiện qua
Bạch Ngọc Kinh hữu hình (có Cửu Trùng Đài). Xã hội rộng lớn mênh mông khó thấy
hơn nên thể hiện qua Bạch Ngọc Kinh vô vi (có Cửu Trùng Thiên). (Xem bài đi tìm
Bạch Ngọc Kinh vô vi tại phụ đính 02).
Một suy vài điều
cần chia sẻ.
Về
hình thể ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ có 03 đài: Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài và Cửu
Trùng Đài. Mổi đài đều có Hội Thánh riêng (Xem Đạo Nghị Định thứ sáu ngày 03.
10. Canh Ngọ “22. 11. 1930”: Chiếu theo
Pháp Chánh Truyền của cả Hội Thánh Bát Quái Ðài, Cửu Trùng Ðài, Hiệp Thiên Ðài.)
Về
kiến trúc kể theo thứ tự trong nội điện: Hiệp Thiên Đài đến Cửu Trùng Đài đến
cung Đạo và Bát Quái Đài. Cung Đạo nối Cửu Trùng Đài và Bát Quái Đài là một
thực tế qua thể pháp.
Như
vậy Lầu chuông (Bạch Ngọc Chung Đài) và Lầu trống (Lôi Âm Cổ Đài) có nằm trong
Hiệp Thiên Đài hay không?
Theo
thiển nghĩ là không.
Phần
Lầu chuông và Lầu trống có một phần của Hiệp Thiên Đài. Nhưng Hiệp Thiên Đài
không bao gồm toàn bộ phần đó.
Bởi
vì tiếng trống tượng cho tiếng nổ để tạo lập ra Ngôi Thái Cực từ có ngôi Thái
cực mới có càn khôn vũ trụ. Tiếng chuông tượng cho tiếng ngân sau tiếng tiếng
nổ. Trong phần Lầu chuông, Lầu trống có đài, có điện đan xen nhau, có bố trí
hoa văn tượng cho nguyên lý tạo lập càn khôn vũ trụ từ khi có ngôi Thái cực cho
đến có bát hồn nên thuộc về NGUYÊN LÝ ĐẠO PHÁP./.
Còn tiếp phụ đính 1 &2.
Biên soạn: Đạo Hữu Dương Xuân Lương.
CHÁNH SÁCH HÒA BÌNH CHUNG SỐNG.
DO DÂN - PHỤC VỤ DÂN - LẬP QUYỀN
DÂN.
CƯƠNG- LĨNH
. Thống nhất lãnh thổ
và khối dân tộc Việt Nam với phương pháp ôn hòa.
. Tránh mọi xâm phạm
nội quyền Việt Nam.
. Xây dựng Hòa bình, Hạnh phúc và Tự do Dân chủ
cho Toàn dân.
&&&
I/- THỐNG NHẤT LÃNH THỔ
VÀ KHỐI DÂN TỘC VIỆT NAM VỚI PHƯƠNG PHÁP ÔN HÒA.
A.
Giai đoạn thứ nhứt:
1/ Để hai chính phủ địa
phương tạm giữ nguyên vẹn nền tự trị nội bộ mỗi Miền theo ranh giới vĩ tuyến
17.
2/ Thành lập một “Ủy ban
hòa giải dân tộc” gồm có các nhân sĩ trung lập và một số đại diện bằng nhau của
chính phủ 2 miền để tìm những điểm dung hợp giữa 2 miền.
3/ Tổ chức nước Việt Nam
thống nhất thành chế độ Liên Bang Trung Lập gồm có 2 phần liên kết (Nam và Bắc)
theo hình thức Thụy Sĩ với một chính phủ Liên Bang lâm thời, để điều hòa nền
kinh tế trong nước và để thay mặt cho nước Việt Nam thống nhất đối với Quốc Tế
và Liên Hiệp Quốc.
4/ Bãi bỏ bức rào vĩ
tuyến 17. Dân chúng được bảo đảm sự lưu thông tự do trên toàn lãnh thổ Việt Nam
để so sánh và chọn lựa chế độ sở thích mà định cư.
&&&
B.
Giai đoạn thứ nhì:
1/ Đánh thức tinh
thần dân tộc đến mức trưởng thành, đủ sức đảm nhiệm công việc nước theo nhịp
tiến triển của thế giới trong khuôn khổ tự do và dân chủ.
2/ Khi dân tộc đã trưởng
thành và khối tinh thần đã thống nhất thì toàn dân Việt Nam sẽ tự giải quyết
thể chế thiệt thọ theo nguyên tắc tự quyết bằng cách mở các cuộc Tổng Tuyển Cử
thể theo hiệp định Genève tháng 7/ 1954, để thành lập Quốc hội duy nhất cho
nước Việt Nam. Cuộc Tổng Tuyển Cử này sẽ tổ chức dưới sự kiểm soát và trách
nhiệm trọn quyền của Liên Hiệp Quốc để ngăn ngừa điều áp bức dân chúng.
3/ Quốc hội này sẽ định
thể chế thiệt thọ và thành lập một chánh phủ trung ương nắm trọn quyền trong
nước Việt Nam.
&&&
II/ TRÁNH MỌI XÂM PHẠM
NỘI QUYỀN VIỆT NAM.
1/ Hữu dụng nền độc lập
của mỗi Miền đã thu hồi do hai khối đã nhìn nhận (chính phủ Hồ Chí Minh ở miền
Bắc và chính phủ Ngô Đình Diệm ở miền Nam).
2/ Nương vào các nước
Trung lập như: Ấn Độ, Anh, Miến Điện, A Phú Hãn .. , để mở một đường lối thứ
ba, gọi là “đường lối dân tộc” căn cứ trên khối dân tộc để làm trung gian dung
hòa hai chế độ.
3/- Tránh mọi hướng dẫn
ảnh hưởng hoặc can thiệp của một khối nào trong hai khối đối lập Nga Mỹ, vì đó
là nguyên căn một cuộc tương tàn có thể gây nên trận thế giới chiến tranh thứ
3. Gia nhập vào một trong hai khối Nga hoặc Mỹ tức là chịu làm chư hầu cho khối
ấy và tự nhiên là thù địch của khối kia. Như thế chánh sách “Hòa Bình Chung
Sống” không thể thực hiện đặng; bằng chứng là tình trạng của Đức, Áo, Trung
Hoa, Triều Tiên và Việt Nam hiện tại.
&&&
III/. XÂY DỰNG HÒA BÌNH
HẠNH PHÚC VÀ TỰ DO CHO TOÀN DÂN.
1/ Kích thích và thúc
đẩy cuộc “Thi đua Nhơn Nghĩa”, giữa 2 miền Bắc và Nam để thực hiện hạnh phúc
cho nhân dân trong cảnh hòa bình xây dựng trên nguyên tắc bác ái, công bình và
nhơn đạo.
2/ Áp dụng và thực hiện
Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc, thực hiện tự do dân chủ trên toàn
lãnh thổ Việt Nam.
3/ Thâu thập tất cả mọi
ý kiến, phát huy do tinh thần hiền triết cổ truyền của chủng tộc đưa lên và
giao lại cho Liên Hiệp Quốc hòa giải để thi hành cho dân chúng nhờ.
4/ Dùng tất cả các biện
pháp để thống nhất tinh thần dân tộc trong việc xây dựng hạnh phúc với điều hay
lẽ đẹp trên căn bản hy sinh và phụng sự.
5/ Hai miền phải thành
thật bãi bỏ mọi tuyên truyền ngụy biện và xuyên tạc lẫn nhau. Phải để cho nhân
dân đứng trước sự thật tế mà nhận xét sự hành động của đôi bên rồi lần lần sẽ
đi đền chỗ thống nhất ý kiến.
6/ Sự thực hiện “Chánh
Sách Hòa Bình Chung Sống” trên đây sẽ đặng thi hành dưới sự ủng hộ và kiểm soát
thường trực của Liên Hiệp Quốc và các phần tử Trung Lập trong nước và ngoài
nước, hầu ngăn ngừa mọi áp bức nhân dân do nơi quyền độc tài của địa phương hay
do áp lực của ngoại quyền xúi giục.
Nam
Vang, ngày 26- 3- 1956
HỘ
PHÁP
PHẠM
CÔNG TẮC
(Ấn
Ký).
HỘ PHÁP
ĐƯỜNG.
VĂN PHÒNG.
SỒ: 20 /HP.HN
|
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ
PHỔ ĐỘ.
(Tam Thập Nhứt Niên).
Tòa Thánh Tây Ninh.
|
Hộ
Pháp
Phạm
Công Tắc Giáo Chủ Đạo Cao Đài.
Kính gởi Quí Ngài:
. CHỦ TỊCH LIÊN HIỆP QUỐC.
. và các Ngài THỦ TƯỚNG CHÁNH PHỦ
CÁC CƯỜNG QUỐC.
Kính quý Ngài,
Sau 82 năm bị đô hộ dưới
quyền Pháp thuộc, ngày 9- 3- 1945, toàn cả quốc dân Việt Nam quật cường giải
ách nô lệ.
Việc trọng đại ấy đã có
tiếng dội khắp cả thế giới và các liệt cường quốc tế đều hiểu rõ.
Đã 11 năm tranh đấu
không ngừng để định vững chủ quyền độc lập cho Tổ quốc, dân tộc Việt Nam đã
chịu bao nhiêu thống khổ, tang tóc về tài sản cũng như sinh mạng, lại thêm bị
hai ngoại quyền Cộng sản và Tư bản xen vào nội bộ, chia Quốc dân Việt Nam làm
hai xu hướng.
Kể từ ngày quân đội Pháp
thất trận ở Điện Biên Phủ lại thêm một tai hại lớn lao hơn nữa tròng lên đầu
dân Việt Nam. Thật vậy 9 nước ở Hội Nghị Genève với hảo ý đem hòa bình lại cho
xứ Việt Nam và chấm dứt chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh đã vô tình mà không
nhận định sự tai hại cho Việt Nam là thế nào, nên đã ký một hiệp định chia đôi
lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến 17 rồi lại định cho Việt Nam phải tự tìm phương
thống nhất.
Chúng ta nên nhớ rằng
khi ký hiệp định Genève thì vĩ tuyến 17 chỉ có nghĩa là để chia đôi Quân đội
của hai bên ra để tránh sự đụng chạm, nhưng về sau thì vĩ tuyến 17 đã biến
thành một cách thực tế ranh giới chia hẳn 2 Miền Nam Bắc, miền Bắc thì do Cụ Hồ
Chí Minh với Chính phủ thân Nga và miền Nam thì Cụ Ngô Đình Diệm với Chánh phủ
thân Mỹ.
Là nạn nhân của thời
cuộc và của sự tranh chấp chủ nghĩa quốc tế, dân tộc vô phúc này thay vì đặng
giúp đỡ và an ủi, phải thêm một vết đau thương do 9 nước đã vô tình xâm phạm
quyền dân tộc tự quyết của họ.
Tình trạng đã hiển nhiên
và không một ai có thể nào chối cãi. Việc cốt yếu hiện nay là phải tầm một diệu
dược để cứu chữa bịnh trạng ấy.
Bần Đạo rất hài lòng
nhận nơi đây hảo ý và sự cố gắng dẻo dai của các cường quốc Trung Lập để tìm
một giải pháp hòa bình mong giải quyết vấn đề Việt Nam.
Là Giáo Chủ một Tôn giáo
tượng trưng tinh thần của một dân tộc đủ phong tục, đủ văn hiến do một nền văn
minh tối cổ Khổng giáo, Bần Đạo không thể ngồi yên đặng nhìn sự thống khổ của
họ vì lẽ bất công của xã hội nhơn quần.
Vì cớ nên Bần Đạo định
góp sức mọn mình với sự cố gắng của các liệt cường để tìm phương pháp cứu vãn
tình thế, giải nạn cho chủng tộc Việt Nam đặng bảo vệ hòa bình và hạnh phúc cho
họ.
Hôm nay Bần Đạo phải
xuất ngoại cốt yếu để bảo thủ tự do của cá nhân hầu có đủ phương tiện kêu gọi
lòng nhân đạo của các liệt cường giúp sức cho Bần Đạo đủ phương hòa giải hầu
tránh nạn cốt nhục tương tàn của sắc dân Việt sắp gây nội chiến vì đôi ảnh
hưởng.
Nhơn đó Bần Đạo xin gửi
theo đây một chương trình tối thiểu mà đại ý là một đường lối chung sống lập
thành tại nước Việt Nam một Chính phủ Liên bang hầu có thể thực thi Thống Nhất
theo như Hiệp định Genève đã đề nghị.
Chương trình này Bần Đạo
đã định rõ trong bức điện văn gởi cho Tứ Cường trong buổi hội nghị Genève kỳ
nhì vào ngày 21 tháng 7 năm 1955 và đã nhờ Thủ tướng EDGAR FAUREC chuyển đệ.
Bần Đạo chỉ xin Liên
Hiệp Quốc và các liệt cường thật tâm ủng hộ và cương quyết bảo đảm cho Bần Đạo
được tự do tuyên truyền giải pháp nầy khỏi sự khủng bố của hai chính phủ đương
quyền Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm trong khi Bần Đạo thật hành sứ mạng hòa bình
nầy.
Bần Đạo quả quyết rằng:
Đồng bào Việt Nam luôn luôn yêu chuộng hòa bình sẽ hưởng ứng nhiệt liệt phong
trào này nếu họ được tự do phát biểu ý chí của họ.
Bần Đạo tỏ lòng tri ân quý
vị. (1).
Phnom
Penh, ngày 26 tháng 3 năm 1956.
HỘ
PHÁP
PHẠM
CÔNG TẮC
(Ấn
Ký).
&&&
Theo SỬ LƯỢC về HBCS của
Ngài QUI TÂM biên soạn tại trang 48 thì thư nầy có đính kèm bản chính sách
HBCS.
@@@
KHÔNG
CHẤP NHẬN HÀNH ĐỘNG “VÔ PHÁP, VÔ THIÊN” CỦA NHÓM CỰC
ĐOAN DO DƯƠNG XUÂN LƯƠNG CẦM ĐẦU
THỨ NĂM. 20-03-2008.
BÁO TÂY NINH (TRANG 05).
PHÁP LUẬT NHÀ NƯỚC VÀ TOÀN ĐẠO CAO ĐÀI
(tiếp
theo và hết)
Theo
dõi sự việc, nhóm phóng viên AN-CT nhận thấy và có thể nói âm mưu manh động của
nhóm cực đoan này đã bất thành. Nghĩa là trong hàng triệu tín đồ Cao Đài không
có một ai nghe theo lời của bọn chúng để làm cái chuyện vi phạm luật đạo lẫn
luật đời. Được biết, trong các ngày qua ở các họ đạo Cao Đài trong tỉnh Tây
Ninh, Ban Cai Quản các họ Đạo đã tổ chức nhiều cuộc họp mặt chức sắc, tín đồ để
phổ biến thông tin rộng rãi Thông tri số 01/83-HĐCQ.TT ngày 11.03.2008 của Hội
Đồng Chưởng Quản Hội Thánh Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh về hành vi “giục loạn,
gây mất đoàn kết nội bộ tôn giáo, cố tình dùng lời lẽ lừa đảo, gạt gẫm người
đạo nhẹ dạ nghe theo vào đường lối tội lỗi với đạo, vi phạp luật pháp nhà nước”
của nhóm Dương Xuân Lương. Qua các cuộc họp ở các Thánh Thất, Điện Thờ Họ Đạo,
các vị chức sắc và đông đảo tín đồ đều cho rằng hành động của nhóm cực đoan nọ
là “hết sức xằng bậy”, họ chỉ là một nhóm quá khích rất nhỏ, không có tư cách
nào để xưng danh là cả Khối Nhơn Sanh hàng triệu người Cao Đài, lập luận “quàng
xiên” của họ cho rằng “chi phái HĐCQ
đang chiếm cứ nội ô Toà Thánh” là hoàn toàn sai trái, và hành động của họ
kêu gọi đông người đến tụ tập để trục xuất HĐCQ là vi phạp pháp luật Nhà nước,
cần thiết phải nghiêm trị để giữ vững kỷ cương phép nước.
Hành
động quá khích của nhóm Dương Xuân Lương khiến cho nhiều người đạo chân chính
hết sức bất bình. Qua thu thập tài liệu, nhóm PV-ANCT được biết, trước khi tán
phát “Tờ Bố Cáo” kêu mọi người tụ tập ở gốc Bồ Đề Nội Ô Toà Thánh, Lương đã
soạn thảo và tán phát 3 tài liệu là: “bản
phân tích và đề nghị về việc Phục Quyền Hội Thánh” gửi cho Hội Thánh và một
số chức sắc Thiên Phong, “Bản Đề Nghị
góp sức phục quyền Hội Thánh gửi Ban Chấp Hành Đại Đạo Thanh Niên Hội ở hải
ngoại” và “Tâm thư gửi Chức Sắc
Thiên Phong, Chức Sắc Việc và Đồng Đạo”. Nội dung các tài liệu này vẫn là
giọng điệu kêu gọi người đạo chống lại cơ quan thường trực của Hội Thánh Cao
Đài Toà Thánh Tây Ninh. Thế nhưng hầu như không ai tán thành hành động của
Lương, trái lại có nhiều người đạo viết thư gửi lại nhóm của Lương, thẳng thắn
phản đối bọn chúng. Xin trích đăng lên đây đoạn thư của hai người ký tên là V.V.N
và C.C.B (nhóm PV-ANCT xin viết tắc để tránh phiền phức cho hai ông N và B):
“dù họ có dốt bực nào đi nữa, họ cũng biết các con, các cháu (chỉ nhóm của
Lương) muốn khuấy nhiểu họ vào con đường tội lỗi, vì các con, các cháu có hành
động ngông cuồng, vô đạo đức, Hội Thánh thay thế hình thể Đức Chí Tôn tại thế
mà các con, các cháu còn kêu chửi và đuổi thì có khác gì hạng người luôn chửi
cha mắng mẹ”.
Hai
ông V.V.N và C.C.B đề nghị: “vậy toàn đạo địa phương 2 chổ thường trú của Dương
Xuân Lương (Lương có hai nơi ở: khu phố Hiệp Nghĩa, phường Hiệp Ninh, thị xã TN
và ấp Long Bình, xã Long Thành Nam, Hoà Thành- nhóm PV-ANCT), đồng đứng lên cho
ý kiến có đồng ý như Dương Xuân Lương đang là đạo hửu cùng ngụ ở địa phương
mình không, để làm những chuyện khùng điên này không? Qua (người viết thư) nghĩ
cả bổn đạo lúc bấy giờ sẽ cực lực phản đối một đạo hữu phản động, đội lốt tu
hành mong phá rối, xúi dục người đạo nhẹ dạ làm tôi tớ cho tà thần tinh quái ở
lẫn lộn với nhơn sanh thật thà tu hành, nên sớm loại trừ phần tử này ra khỏi xã
hội để đem lại sự bằng yên cho sanh chúng”.
Một
người ký tên là C.K, tín đồ một chi phái Cao Đài khác ở TP.HCM cũng có thư gửi
Dương Xuân Lương phản đối giọng điệu của Lương xem thường chi phái, có đoạn
trích như sau: “xin phép nói thật, tiện đệ không khỏi nghi ngờ đạo huynh (chỉ
Dương Xuân Lương) bị tẩu hoả nhập ma khi luyện pháp môn “biện chứng xã hội học”
theo cái cách “không giống ai” của bản chất đạo huynh D.X.L. Cho nên đạo huynh
mới dám ngông nghênh phổ hoá mưu đồ phản thiên, nghịch địa, cà khịa nhơn sanh,
mà cứ tưởng thuận nhơn tâm ắt thuận trời! Cho nên đạo huynh mới dám bày vẽ toàn
những điều phi pháp, phi thiên, giục loạn nhơn sanh, mà cứ nhơn nhơn tưởng rằng
đạo huynh có đại kỳ tài giảng dạy cho các chi phái thực hành Chơn Pháp Thiên
Đạo, giữ gìn luật lệ Cao Đài để tránh khỏi cái cảnh “nhón gót lên mà chờ”. Đạo
huynh khuyên chi phái chúng tôi “tự thắng cái phàm ngã” nhưng đạo huynh lại
buông lời doạ dẫm những chi phái làm trái với kế sách của đạo huynh thì sẽ nhận
lãnh “hậu quả ra sao các vị có thể hình dung lấy, có thể nhón gót lên mà chờ”.
Đúng là đạo huynh đã không “thắng” lại kịp cái phàm ngã du côn của D.X.L”.
Qua
một vài đoạn trích thư của một số người đạo gửi cho Dương Xuân Lương, bạn đọc
có thể nhận thấy không chỉ có người đạo Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh phản đối
Dương Xuân Lương, mà cả người đạo Cao Đài các chi phái ở các tỉnh thành khác
cũng không tán thành hành vi của Lương. Về việc nhóm của Lương gọi cơ quan
thường trực Hội Thánh Cao Đài là “chi
phái HĐCQ”, nhóm phóng viên ANCT đã phỏng vấn một số chức sắc là Cai Quản, Phó
Cai Quản các họ đạo trong huyện Hoà Thành như Lễ sanh Thượng Khánh Thanh, Lễ
sanh Thượng Tài Thanh (họ đạo Hiệp Long, xã Hiệp Tân), Lễ Sanh Thượng Sơn
Thanh, Giáo Thiện Trịnh Thị Song (họ đạo Long Thành Nam, nơi Lương cư trú), các
vị đều cho rằng Dương Xuân Lương đã cố tình xuyên tạc sự thật lịch sử nhằm gây
chia rẽ trong tôn giáo. Ở Tây Ninh cũng như trong cả nước, ai cũng biết rằng
tỏng Nội Ô Toà Thánh suốt từ ngày khai đạo 83 năm qua, trải bao thăng trầm,
trước sau “Hội Thánh vẫn giữ quyền Hội Thánh”.
Dù
lịch sử có nhiều biến thiên, từ khi đất nước còn bị thực dân, đế quốc tạm
chiếm, cho đến khi đất nước hoà bình, thống nhất, đạo Cao Đài Toà Thánh Tây
Ninh có nhiều lần thay đổi pháp nhân, thay đổi Hiến chương, Hội Thánh vẫn là tổ
chức lãnh đạo tinh thần cao nhất của đạo. Tuy nhiên, do điều kiện những ngày
miền Nam mới giải phóng, nhiều vị chức sắc trở về tu tại gia, nhiều vị lần lượt
quy thiên, Hội Thánh chưa đủ người có đủ phẩm vị nên đã lập ra cơ quan thường
trực Hội Thánh là Hội Đồng Chưởng Quản để điều hành hoạt động đạo sự. Đó là
việc bình thường không có gì khác lạ. Hoạt động của đạo vẫn tiến hành theo quy
định từ trước đến nay trong Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, và được pháp luật nhà
nước thừa nhận. Do đó, luận điệu của nhóm Dương Xuân Lương là hoàn toàn sai
trái, không một chút thuyết phục nên không lừa mị được ai cả.
Về
việc Đạo Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh đang hoàn chỉnh bản Hiến chương sửa đổi đề
trình Thủ tướng Chính phủ xin công nhận, nhóm PV-ANCT được một vị chức sắc cao
cấp trong HĐCQ cho biết, trên cở sở những ý kiến nguyện vọng của chức sắc, tín
đồ trong Đại Hội Nhơn Sanh và Đại Hội Hội Thánh cuối năm 2007 HĐCQ đã bổ sung,
sửa đổi bản dự thảo Hiến chương và đã thống nhất làm tờ trình do Đầu Sư Thượng
Tám Thanh, Hội Trưởng, Cải Trạng Lê Minh Khuyên và Nữ Đầu Sư Hương Nhìn ấn ký
gửi Thủ tướng Chính phủ, Ban Tôn Giáo Chính Phủ, UBND tỉnh Tây Ninh, Ban Tôn
Giáo tỉnh Tây Ninh xin phê duyệt Hiến chương Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (Cao Đài Toà
Thánh Tây Ninh) năm Đinh Hợi 2007. Theo Hiến chương này, về hệ thống tổ chức
hành đạo và nhân sự, Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (Cao Đài Toà Thánh Tây
Ninh) gồm tất cả các chức sắc nam nữ từ phẩm Giáo hữu và các phẩm tương đương
trở lên của hai Đài Hữu Hình là Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài, hành đạo theo
Pháp Chánh Truyền-Tân Luật trong niềm tin tuyệt đối nơi thiêng liêng vô vi là
Bát Quái Đài để xây dựng thánh thể hữu hình của Đức Chí Tôn (Hội Thánh) từ đời
này qua tới đời khác. Như thế theo bản Hiến chương mới, cơ quan lãnh đạo cao
nhất của Đạo Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh là Hội Thánh Lương Đài đúng theo luật
pháp chơn truyền của đạo, đúng theo nguyện vọng của Nhơn Sanh. Và như thế hành
động của nhóm cực đoan do Dương Xuân Lương cầm đầu, đòi “trục xuất chi phái HĐCQ ra khỏi nội ô” thực chất chỉ là
một trò lố bịch, chẵng nhưng sai trái pháp luật đạo mà còn vi phạm pháp luật
nước Cộng Hoà XHCN Việt Nam.
Báo Tiếng Dân.
04/04/2018.
(PLO)
– Vùng đất từng là một xã trù phú với hàng ngàn hộ dân, hàng vạn nhân
khẩu, dần bị thô bạo cưỡng chế xóa trắng, đền bù rẻ mạt, để mọc lên “khu đô
thị” phân lô bán nền do Liên hiệp HTX Dịch vụ nông nghiệp tổng hợp Đồng Nai
(Donacoop) làm chủ đầu tư.
Chỉ
cách trung tâm Biên Hòa (Đồng Nai) mươi cây số, 10 năm nay, hàng ngàn nông dân
sống trong cảnh lầm than. Người sống không còn nơi dung thân, mò ốc bắt còng
sống qua ngày; người chết cũng không nơi chôn cất. Cuộc sống điêu tàn, oán thán
chất chồng.
Xóa
trắng xã lập khu đô thị “chui”
Câu
chuyện bắt đầu từ những năm 2007, khi “Khu đô thị sinh thái kinh tế mở Long
Hưng” ra đời, gồm ba dự án: Đồng Nai Water Front (366,7 ha), Aqua City (304,9
ha), Khu dân cư Long Hưng (227,7 ha), tại xã Long Hưng, huyện Long Thành (xã
Long Hưng nay đã chuyển về TP Biên Hòa). Mục tiêu, theo giấy chứng nhận đầu tư,
là “đầu tư xây dựng và kinh doanh khu đô thị”.
Năm
2008, UBND Đồng Nai ra các quyết định phê duyệt phương án thu hồi đất 2.532 hộ
dân, trong đó 1.130 hộ bị giải tỏa trắng. Dù đây không phải là dự án công ích,
dân vẫn bị áp giá với mức có khi chỉ 35 ngàn đồng/m2. Tính theo thời giá, mỗi
m2 đất ăn được hai đĩa cơm sườn.
Chưa
bàn đến các vấn đề pháp lý chi tiết, chưa bàn đến việc dự án thương mại có được
áp giá và thô bạo cưỡng chế hay không, dự án nhanh chóng bị kết luận là dự án
“chui”. Người dân đâm đơn khiếu nại tố cáo khắp nơi, không chấp nhận giao đất
với giá rẻ mạt để nhà đầu tư bán lại với giá gấp hàng trăm lần. Đầu năm 2010,
Bộ Xây dựng đã có văn bản khẳng định “dự án khu đô thị mới có quy mô sử dụng
200 ha trở lên phải được Thủ tướng Chính phủ xem xét, chấp thuận”. Có nghĩa
Đồng Nai khi đó đã cấp phép trái thẩm quyền.
Bộ
Xây dựng lưu ý “khu đô thị quy mô sử dụng đất từ 200 ha trở lên là dạng hoạt
động kinh doanh đặc thù và có nhiều điểm khác như sử dụng diện tích đất lớn,
liên quan đến nơi sinh sống hàng vạn người dân và các lĩnh vực khác như giáo
dục, thể thao, y tế, văn hóa… Ngoài ra việc đầu tư xây dựng khu đô thị mới còn
phải đáp ứng các yêu cầu về xây dựng đồng bộ hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội,
bảo đảm phù hợp về kiến trúc, quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, các vấn đề kết
nối hạ tầng khu vực…”.
Cuối
tháng 3/2010, Văn phòng Chính phủ có văn bản truyền đạt ý kiến Thủ tướng yêu
cầu UBND Đồng Nai nghiêm túc kiểm điểm việc cấp phép đầu tư dự án. Tuy nhiên
trước hành động “tiền trảm hậu tấu” của Đồng Nai, văn bản này vẫn cho phép tiếp
tục triển khai các dự án trên, và “phải thực hiện đúng quy hoạch và tiến độ,
thực hiện các cam kết về bảo đảm an sinh xã hội tại địa phương”.
Cuộc
sống hàng ngàn hộ dân xã Long Hưng từ khi đó chính thức rơi vào cảnh oán thán.
Nhưng trời thì cao, đất thì dày, oán thán ai nghe?
Bảy
năm qua, cứ mỗi lần nhắc lại ngày bị thô bạo cưỡng chế nhà, ông Hoa lại uất ức
bật khóc.
Ảnh: PLVN
Cuộc
cưỡng chế “thí điểm”
Bảy
năm qua, ông Phan Văn Hoa (SN 1959, từng ngụ ấp An Xuân) không có một giấc ngủ
ngon. Từ một nông dân cần mẫn gây dựng nên nhà cao cửa rộng, vườn cây ao cá,
ruộng lúa mênh mông, bỗng chốc mất tất cả. Mồ hôi nước mắt nhiều đời gây dựng
bị cưỡng chế đập phá thành bãi đất trống phân lô bán nền cho các “đại gia”.
Tính
tới đứa cháu đang nằm nôi, nhà ông sáu đời cư ngụ ở đất Long Hưng, cái tên có
nghĩa “con rồng mạnh mẽ, trí tuệ, sung túc”. Năm 1977, ông Hoa lập gia đình,
thừa hưởng ruộng vườn gia đình. Gom góp, đi lượm từng thanh sắt, làm được bao
nhiêu để dành mua gạch đá, hàng đêm vợ chồng xuống sông xúc cát trữ sẵn. Mất
bốn năm trời ròng rã mới xây xong căn nhà năm 1991.
Khoảng
vườn 1.700m2 đất thổ cư, ông đào ao thả cá, trồng cây ăn trái. Diện tích 1,6 ha
đất ông vừa trồng lúa, trồng cây lâu năm. Mỗi năm bình quân ông thu lãi 80
triệu đồng, thời điểm đó tương đương 6 – 7 lượng vàng. Từ năm 1995 đến 2009,
ông hết nhận được xã, huyện, tỉnh Đồng Nai công nhận “nông dân sản xuất giỏi”.
Những tưởng cuộc sống ấm no hạnh phúc, con cái lớn lên dựng vợ gả chồng cho mỗi
đứa ít đất ra riêng, làm căn nhà nhỏ. Ai ngờ tan nát hết.
Năm
2008, ông được gọi ra xã nghe phổ biến dự án “Khu đô thị sinh thái kinh tế mở
Long Hưng”. Biết đây là dự án thu đất giá rẻ bán lại giá cao, không phải vì
công ích, ông không đồng ý. Chính quyền vẫn cho người kiểm đếm tài sản. Mồ hôi
nước mắt sáu đời, cả nhà đất 1.700 m2 và cây trái, ao cá chỉ được bồi thường
854 triệu. Ông không đồng ý nhận tiền, không đồng ý giao đất.
Nhà
ông Hoa ở đầu làng nên trở thành “mục tiêu” đầu tiên cho cuộc cưỡng chế “thí
điểm”. “Không họp hành, không gặp mặt, không thuyết phục động viên. Đầu tiên
không nghĩ họ bạo lực đến vậy, nhưng hóa ra họ làm bất chấp vì nhà tôi là
trường hợp đầu tiên. Nếu cưỡng chế được, đó là biện pháp thị uy, cảnh cáo các
nhà khác, làm tê liệt ý chí phản kháng cả xã”, ông Hoa nói. Hôm đó, ông nhớ rất
rõ, ngày 19/10/2011.
Vợ
ông Hoa quỳ lạy lực lượng cưỡng chế (Hình cắt từ clip)
“Hóa
chất lạ” trấn áp những lời van xin
Sáng
tinh mơ hôm ấy, cả xã Long Hưng bừng tỉnh bởi tiếng xe cảnh sát, cứu hỏa, cứu
thương… Những nông dân chưa từng thấy cảnh tượng hàng trăm công an, trật tự đô
thị, bảo vệ dân phố, cán bộ… vây một căn nhà. Trong căn nhà ấy, không có tội
phạm, cũng không tiềm ẩn nguy hiểm gì. Đó là gia đình nông dân gồm một ông bố,
một bà mẹ, ba đứa con và mấy đứa cháu. Ông Hoa kể lại: “Tôi chỉ lập một bàn thờ
Bác Hồ và cờ Tổ quốc đặt trước sân. Đất nước độc lập tự do hạnh phúc là giữ cho
dân mảnh đất mình khai phá. Cứ tưởng họ không dám phá nhà”.
Người
dân đến rất đông, nín thở im lặng theo dõi. Những người già thì lên tiếng phản
đối. “Gia đình tôi khóa cổng, hi vọng lực lượng cưỡng chế niệm tình thương xót,
nhưng không tình, không lý. Họ tấn công…”, ông Hoa kể lại.
Trong
clip người dân xã Long Hưng ghi lại, người ta thấy cảnh những người nông dân
không có ý định chống đối, chỉ biết kêu gào van xin. Vợ ông Hoa quỳ sụp xuống
đất, chắp hai tay trước ngực lạy lục. Lực lượng cưỡng chế chia thành nhiều mũi.
Mũi đứng trước cổng vô cảm bắc loa đọc thông báo trong tiếng phản đối của dân,
tiếng khóc thét kinh sợ của trẻ con. Mũi khác “đột kích” vào nhà, mở màn bằng
làn khói bao trùm cả một góc vườn, không rõ là lựu đạn khói hay hóa chất gì?
Tiếng chân chạy huỳnh huỵch, tiếng quát nạt, tiếng người bị quật xuống đất,
tiếng trẻ ré lên rồi lịm đi. Máy xúc tiến vào giơ gầu quật liên tiếp. Mồ hôi
công sức chắt chiu bao đời tan nát.
Ông
Hoa kể lại: “Con trai tôi khi đó uất quá la lên. Họ lao đến lôi con tôi ra
đường. Tôi hoảng quá, lôi lại, bị đè sấp mặt xuống đất. Họ bẻ gô tay cha con
tôi ném lên xe thùng, chở ra sân ủy ban xã giữa trời nắng đến chiều rồi đưa về
trại giam công an”. Đói, khát, giận dữ, tuyệt vọng. Vợ ông sợ hãi ngất xỉu,
tỉnh lại cũng bị giải ra ủy ban.
Cơ
ngơi bao đời sau ít phút chỉ còn đống xà bần. Lực lượng cưỡng chế bỏ đi mang
theo gia đình ông Hoa bị còng trên xe thùng, phía sau lưng là những ánh mắt sợ
hãi bàng hoàng.
Chiều
muộn, vợ ông Hoa mới được thả về. Bước thấp bước cao trên con đường quen, một
hàng xóm chặn lại: “Nhà thành đống gạch vụn rồi, về làm gì nữa”. Nhà bị phá,
chồng con bị bắt, người phụ nữ hóa cái xác vô hồn để người ta dìu sang nhà
người quen tá túc qua đêm, rồi sáng hôm sau gom chút sức tàn gượng lên Công an
Biên Hòa… đóng tiền phạt.
Lập
chòi tá túc cũng bị cưỡng chế
Ông
Hoa và các con bị giam cho đến khi vợ lên đóng phạt mới được về. Người đàn ông
ngậm ngùi: “Ngày xưa bom đạn Mỹ không tàn phá, không gây oán thán nhiều như
vậy”. Ông bảo với nhà ông, nay thời bình mà quá chiến tranh, có đất có nhà
nhưng thành bần cùng chỉ trong phút chốc.
Nuốt
nước mắt cúi đầu chịu nhục trước bất công, ông Hoa nhặt nhạnh vật liệu từ đống
xà bần, dựng cái chòi mới tá túc. “Nhưng họ đâu có tha. Lần thứ hai họ tiếp tục
cưỡng chế. Họ bảo tôi xây trái phép trên đất dự án”. Hai lần dựng chòi trên nền
đất nhà cũ đều bị phá, ông chuyển sang đất vườn. Túp lều sau đó cũng cùng số
phận. Ông chuyển ra dựng chòi trên đất ruộng, chốn dung thân này cũng bị giật
sập. Những cuộc cưỡng chế kiểu “đuổi cùng giết tận” này, theo ông, vẫn là một
cách “khủng bố tinh thần”, “dằn mặt” dư luận xã.
Cuối
cùng ông chuyển ra dựng chòi trên đất ruộng của một hàng xóm chưa bị giải tỏa
thì mới được tạm yên. Ông lý giải không phải vì muốn tỏ ra “rắn mặt”, mà chỉ
đơn giản vì ông là nông dân. Nông dân không đất như cá rời nước, sống bằng gì.
Dựng chòi ngoài ruộng trồng luống rau, cấy ít lúa, mới có miếng ăn sống qua
ngày.
Kể
từ ngày bị cưỡng chế mất nhà, gia đình ông tan đàn xẻ nghé. Mấy đứa con ra ở
trọ hoặc tá túc mỗi nhà người quen ít hôm. Ông Hoa nói: “Người ta bảo dự án này
giúp dân an cư, ổn định đời sống, nhưng tôi thấy nó đi ngược lại. Nó khiến
chúng tôi nghèo đi, mất hết đất sản xuất thì ổn định kiểu gì. Nông dân như tôi,
chân tay vầy đây, chữ nghĩa không biết, không ruộng, đi làm công nhân có ai
nhận sao?”.
Dù
sống cảnh bần cùng, ông Hoa vẫn cương quyết không ký giấy nhận bồi thường,
không tiếp tay cho dự án sai, không chấp nhận cảnh vô lý. “Dự án tư nhân thu
lợi cá nhân mà áp đặt đền bù, cưỡng chế lấy đất là trái luật. Dù nhà bị đập,
vườn ruộng bị san phẳng, tôi vẫn tin vào pháp luật, vẫn tin Đảng và Nhà nước sẽ
biết câu chuyện, phân xử đúng – sai”.
Không
may mắn như bác nông dân 59 tuổi này còn sức khỏe, còn quyết tâm đi tìm công
lý; vì dự án “Khu đô thị sinh thái kinh tế mở Long Hưng”, đã có những gia đình
bị đẩy vào hố sâu bần cùng, mẹ ngơ ngẩn, con mất mạng, gia đình không chốn dung
thân lay lắt trong “ngôi nhà” tự chế neo trên dòng kênh đen.
Mời bạn đọc đón đọc kỳ sau.
PLVN: Dự án “tỷ đô” của Donacoop đẩy hàng ngàn dân vào
cảnh điêu tàn
Báo Tiếng Dân. 04/04/2018.
PLVN. Nhóm PV. 3-4-2018.
(PLO)
– Đêm đêm mò ốc bắt còng trên con sông bên “Khu đô thị kinh tế mở Long
Hưng”, nhiều lúc chàng trai 25 tuổi lại ngước mặt lên thẫn thờ nhìn lên vùng
đất sáng rực ánh đèn từng có ngôi nhà của mình, nay đã bị san lấp phân lô, bán
nền, chỉ biết khắc khoải: “Vì sao lại thế?”. Mù chữ, bị “khủng bố tinh thần”
nên sợ hãi, gia đình Tâm đành chịu mất đất, sống cảnh không chốn dung thân,
nhẫn nhục chịu đựng lầm than.
Bà
Thu liêu xiêu đi về “căn nhà” dựng bên dự án tỷ đô. Nguồn: PLVN
Gia
đình Dương Minh Tâm (SN 1993, từng ngụ tại số nhà 559, khu 3, ấp Phước Hội) là
một trong những trường hợp điển hình vì dự án “Khu đô thị sinh thái kinh tế mở
Long Hưng” (tại xã Long Hưng, TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, do Liên hiệp HTX Dịch
vụ nông nghiệp tổng hợp Đồng Nai (Donacoop) làm chủ đầu tư), mà bị đẩy vào cảnh
bần cùng.
Được
“đền bù” nền đất để… ngắm chơi
Tâm
kể lại, sau cuộc cưỡng chế lấy đất đầu tiên với gia đình ông Phan Văn Hoa (PLVN
đã phản ánh trong số báo trước), tâm lý người dân cả xã kinh hãi. “Cả trăm
người tay dùi cui điện, tay xịt khói tùm lum, dân la lên cũng bị còng, ai dám ý
kiến chống đối nữa”, chàng trai kể lại.
Gia
đình Tâm có năm người thì cả năm đến mặt chữ còn không rành, nói gì đến biết
quy định pháp luật mà đòi hỏi những quyền lợi như đền bù hợp lý hay chưa, hỗ
trợ học nghề ra sao? Giao lại căn nhà và mảnh vườn cho nhà đầu tư Donacoop, họ
dắt díu ra khu nhà tạm cư ở tạm.
Tâm
kể gia đình được bồi thường một nền đất tái định cư 100m2 và số tiền bồi thường
hơn 150 triệu. Phải ở nhà tạm cư, vì theo “luật” của Donacoop đưa ra, dù có đất
tái định cư cũng không được tự ý xây dựng gì trên đó. Muốn ở đó, phải chi tiền
cho Donacoop xây nhà. Thời điểm đó, mẫu nhà “giẻ rách” nhất của Donacoop cũng
lên tới 150 triệu đồng.
Số
tiền được “bồi thường”, mẹ Tâm, bà Trần Thị Thu (SN 1961), có sáu người con,
chia cho mỗi đứa một ít, vậy là chỉ còn vài chục triệu. Gia đình vốn sống bằng
nghề mò ốc bắt còng, làm vườn tược, nay ruộng đồng bị san lấp cả, biết kiếm
sống từ đâu. Cả xã lâm cảnh điêu tàn, có sức chẳng ai thuê. Bốn đứa con trai
tuy lớn lộc ngộc nhưng ít học, cả đời chưa bước chân ra khỏi xã, biết tha
phương nơi nào kiếm ăn? Bốn anh em ngày ngày rảnh rỗi ngồi không chỉ biết gầy
sòng nhậu. Miệng ăn, núi lở. Từ chỗ có nhà, có vườn, có đất, có kế sinh nhai,
gia đình “đổi” được cái nền đất chỉ để… ngắm chơi.
Ngày
ngày say xỉn, người phụ nữ 57 tuổi lại tìm về nền đất từng có căn nhà bị thu
hồi.
“Nhàn
cư vi bất thiện”, bi kịch của gia đình nông dân này một phần bắt nguồn từ mất
đất mà ra. Trong một cuộc nhậu, Tâm bị người anh Dương Văn Mẫn (SN 1986, anh
cùng mẹ khác cha) say xỉn đánh đến vỡ tụy. Bà Thu dốc hết tiền, bán cả nền đất
tái định cư được 150 triệu cứu con.
Cứu
được đứa con áp út thì gia đình lâm cảnh không chốn dung thân. Vẫn theo “luật”
do Donacoop đặt ra, chỉ những ai chưa nhận tiền bồi thường, hoặc đã có nền đất
tái định cư mà chưa có tiền đóng cho Donacoop để xây nhà thì mới được ở nhờ khu
tạm cư. Nền đất tái định cư đã bán, bị coi là chẳng còn “dây mơ rễ má gì”,
người ta “phủi tay”. Cả gia đình bị đẩy ra đường, không một xu dính túi, lang
thang không biết đi đâu về đâu.
Gia
cảnh khốn cùng nhà bà Thu cả xã đều biết. Một người thương tình cho hai triệu,
chỉ cho họ mua lại “căn nhà nổi” của một ngư dân bỏ không. Đó là túp lều đặt
trên chiếc bè kết tạm bằng khoảng 20 thùng phuy rỗng. Bà Thu cho neo tạm chiếc
bè trên con sông nhỏ như dòng kênh bên dự án “tỷ đô”. Gia đình năm người sống
lay lắt trong túp lều nổi rộng mươi m2, không điện, không nước, bốn bề nước đen
hôi hám, muỗi mòng như vãi trấu, mỗi cơn mưa ập xuống là trong nhà ướt như
ngoài trời. “Gia tài” quý nhất là tấm biển ghi số nhà 559 ở căn nhà cũ đã bị
phá, bà Thu bới đống xà bần tìm thấy, mang về gắn trước cửa lều.
Bữa
cơm của mẹ con người phụ nữ cùng khổ. Ảnh: PLVN
Bi
kịch gia đình nông dân mất đất
Cuộc
sống lâm cảnh bế tắc bấp bênh như chiếc bè lên xuống mỗi cơn triều cường. Bốn
thanh niên trong nhà không ai dám nghĩ đến những chuyện yêu đương, gia đình,
sinh con đẻ cái, không biết đến cái gọi là “tương lai”, tiếp tục tìm quên trong
men rượu.
Đói
nghèo bần cùng sinh tội ác. Vụ án “tương tàn” xảy ra một ngày cuối năm 2017.
Tâm kể lại: “Sáng đó anh Mẫn và em út Trần Hữu Bình (SN 1996) ngồi nhậu trong
lều, tui lúi húi bắt còng dưới sông. Nghe tiếng hai người cự cãi đánh đấm rồi
kêu cái “hự”, tui chạy lên đã thấy anh Mẫn ngã gục”. Thì ra bị người anh trong
cơn say đánh đập, đứa em bực tức kiếm con dao làm bếp “phản công”. Tâm kêu cứu
đến hụt hơi mới có người nghe tiếng chạy đến hỗ trợ, nhưng nạn nhân đã tắt thở
trước khi đến bệnh viện.
Bà
Thu như hóa điên. Người phụ nữ mới 57 tuổi nhưng tóc đã bạc, dáng tiều tụy,
chân tay quắt queo, da đen đúa, như già đến 20 năm so với tuổi. Vừa thương một
đứa con chết tức tưởi, vừa thắt lòng nhìn công an giải một đứa vào nhà giam.
Đám tang sơ sài cho con xong, người phụ nữ từ ấy tuyệt vọng tìm đến men rượu
tìm quên.
Nhà
năm người, nay chỉ còn ba. Hai đứa con lầm lũi với những cuộc bắt cua bắt còng,
với ngày mấy buổi đi tìm người mẹ thường say xỉn thất thểu lang thang tìm về
nhà cũ. Tâm kể bắt còng ngày nhiều kiếm được 100 ngàn, ngày ít chỉ 20 – 30
ngàn, bữa đói, bữa no. Cuộc sống đã mất đi ý niệm về thời gian, chỉ lờ mờ nhớ
nay đã lay lắt trên dòng kênh đen được ba cái Tết. Cái Tết vừa rồi, người chị
lấy chồng ở miền Tây có ghé về, ngồi thở dài một lúc rồi lại đi. Chị cũng nghèo
như em, chỉ mua được cho mẹ hai ký thịt và ít trái cây.
Tâm
bị thương vỡ tụy, mẹ phải bán nền đất tái định cư chạy chữa, gia đình bị đuổi
ra ngoài đường. Ảnh: PLTP
Chính
quyền ở đâu mà để người dân sống cảnh khốn cùng? Tâm cho hay cũng có “sự hiện
diện” của chính quyền địa phương, đó là 10 ký gạo hỗ trợ hàng tháng. Đó là đôi
khi xuất hiện sắc phục cảnh sát giao thông đường thủy, “hăm” “kéo bè đi nơi
khác”. Chàng trai lúc ấy lại lội xuống nước vác dây lên vai kéo “nhà” đi vô
định cho đến lúc khuất bóng sắc phục. Địa phương có xua đuổi hay không? Tâm kể
cũng có lần một số công an xã kéo đến đòi đuổi đi, nhưng dường như trước gia
cảnh cùng cực như thế, dù ai ác đến mấy cũng không thể nhẫn tâm thêm. Túp lều
cứ thế dập dềnh bên dự án “tỷ đô”, vô định.
Suốt
một ngày chúng tôi ở lại “nhà”, không thấy bà Thu rớt một giọt nước mắt. Cùng
khổ rồi, dường như người phụ nữ ấy đã không còn nước mắt để khóc nữa. Bà lao
vào những cơn say. Nhưng dường như có những điều dù say đến đâu vẫn không thể
quên được. Bên “mâm cơm cúng” 100 ngày con chết chỉ có bát cháo loãng và vài
sợi mì nấu rối, người mẹ mất con đang rót rượu “khề khà” mời người chết, chợt
quắc mắt chỉ về công trường đang xây cất: “Đô na cốp cái gì, đồ ăn cướp”.
Trưa
nắng chang chang, Tâm nhăn nhó ôm vết đau vì vỡ tụy ở bụng, giọng trầm buồn:
“Nếu như không có cái dự án ấy, gia đình tui đã không khổ như bây giờ”. Biết
trả lời Tâm sao? Tâm đưa mắt buồn nhìn ra nơi bờ sông, nơi con chó gầy nhà Tâm
cũng đang nhẫn nhục dặt dẹo ra nằm giơ xương bụng gặm quả mướp non.
Chàng
trai mù chữ có lẽ không thể biết được trên lý thuyết, quyền được có một cuộc
sống đúng nghĩa của mình được “bảo vệ” như thế nào. Trong quyết định của UBND
tỉnh Đồng Nai phê duyệt quy hoạch chung dự án, đã hứa hẹn những lời có cánh về
tính chất mục tiêu “thực hiện chuyển dịch kinh tế – xã hội địa phương từ nông
nghiệp nông thôn phân tán lạc hậu sang đô thị dịch vụ…, phát triển bền vững,
tạo lập môi trường sống mới, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân”. Trước đó, cuối tháng 3/2010, Văn phòng Chính phủ có văn bản truyền đạt ý
kiến Thủ tướng yêu cầu UBND Đồng Nai và chủ đầu tư dự án “thực hiện các cam kết
về bảo đảm an sinh xã hội tại địa phương”. “An sinh xã hội”, mà những cuộc đời
bị gạt ra ngoài lề xã hội, sự sống cái chết lay lắt như ngọn đèn trước gió vậy
sao?
(Còn tiếp kỳ 3).
MỤC LỤC.
1/ Ý nghĩa Tam
Thánh. Tr. 01.
2/ Chánh sách Hòa
Bình Chung Sống. Tr. 06.
3/ Thư
Đức Hộ Pháp gởi: Chủ tịch Liên Hiệp Quốc & các Ngài Thủ Tướng chính phủ các
cường quốc. Tr 08.
4/ Không chấp nhận
hành động “vô pháp vô thiên” của nhóm cực đoan do Dương Xuân Lương cầm đầu.
Kỳ 02: Pháp luật
nhà nước và toàn đạo Cao Đài. Tr 10.
5/ Dự án “tỷ đô” của Donacoop đẩy
hàng ngàn dân vào cảnh điêu tàn – Kỳ 01: Cuộc cưỡng chế “thí điểm” khủng bố
tinh thần toàn xã. Tr. 15.
6/- Dự án “tỷ đô” của Donacoop đẩy
hàng ngàn dân vào cảnh điêu tàn – Kỳ 2: Túp lều dập dềnh bên dự án tỷ đô. Tr. 18.
HẾT.