Ts. Nguyễn Đình Thắng
Ngày 10 tháng 12, 2017
Tháng 8 vừa qua, BPSOS công bố chương trình Công Dân Mỹ gốc Việt Đòi Tài Sản, gọi tắt là “Chương Trình Đòi Tài Sản”. Mục đích của chương trình này là vận động chính quyền Hoa Kỳ can thiệp để bắt chính quyền Việt Nam phải bồi thường cho các tài sản mà họ đã tịch thu của công dân Mỹ gốc Việt. Trong thời gian qua, chúng tôi đã nhận được nhiều câu hỏi của đồng hương. Sau đây là câu trả lời chung cho những câu hỏi này.
Căn cứ nào để chính quyền Hoa Kỳ can thiệp?
Năm 1949 Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua luật bảo vệ tài sản của công dân khi bị một quốc gia khác tịch thu mà không bồi thường một cách hiệu quả, nhanh chóng và công bằng. Năm 1954, Hành Pháp Hoa Kỳ thành lập Uỷ Hội chuyên giải quyết các đòi hỏi bồi thường của công dân Hoa Kỳ, gọi tắt là Uỷ Hội FCSC (viết tắt của “Foreign Claims Settlement Commission), đặt dưới Bộ Tư Pháp. Đến nay Uỷ Hội FCSC đã giải quyết trên 660,000 hồ sơ đòi bồi thường của công dân Hoa Kỳ, và quyết định là 43 quốc gia liên can phải trả tiền bồi thường lên đến nhiều chục tỉ Mỹ kim. Nhiều quốc gia tiếp tục bị Hoa Kỳ “đòi nợ” vì chưa trả hay chưa trả hết nợ.
Nhà chiếm đoạt của công dân Mỹ biến thành cơ sở doanh nghiệp bán vé máy bay (ảnh BPSOS)
Tiêu chuẩn nào để được Uỷ Hội FCSC can thiệp?
Uỷ Hội FCSC chỉ cứu xét những hồ sơ tài sản của công dân Mỹ bị chính quyền ngoại quốc tịch thu. Có 2 thành phần người Mỹ gốc Việt nằm trong tiêu chuẩn này.
Thành phần thứ nhất là những gia đình rời Việt Nam trong những năm 1975-1996 theo các diện di tản, vượt biên, HO, HR, con lai... Nhà, đất mà họ để lại được xem là “vằng chủ” do nhà nước quản lý. Quản lý nghĩa là tạm thời giữ hộ; trên nguyên tắc chủ nhân có quyền đòi lại. Ngày 26 tháng 11 năm 2003 Quốc Hội Việt Nam ban hành Nghị Quyết 23/2003/QH11, một mặt tuyên bố sẽ không giải quyết việc trả lại nhà, đất mà nhà nước đang quản lý và mặt kia ra lệnh quốc hữu hoá chúng. Thời gian thực hiện thủ tục quốc hữu hoá kéo dài từ 10 tháng 10, 2005 đến 30 tháng 6, 2009. Vào thời điểm 2005, hầu hết những người Mỹ gốc Việt có tài sản “vắng chủ” ở Việt Nam đều đã nhập tịch Hoa Kỳ. Nói cách khác, năm 2003 Quốc Hội Việt Nam đã quyết định quốc hữu hoá hàng loạt tài sản của công dân Hoa Kỳ.
Thực ra năm 1991, chính phủ Việt Nam ban hành Quyết Định số 297/QD-CP, tuyên bố là các nhà, đất mà nhà nước đang quản lý thì trở thành tài sản của nhà nước. Tuy nhiên, quyết định này trái luật hiện hành là, tịch thu tài sản của công dân phải có lệnh của toà án. Sự bất cập này làm cho việc thực hiện Quyết Định 297/QD-CP trở thành tuỳ tiện, và là lý do ra đời của Nghị Quyết 23/2003/QH11.
Chúng tôi ước lượng khoảng 100,000 trường hợp thuộc thành phần thứ nhất, với trị giá tài sản lên đến 100 tỉ Mỹ kim.
Nhà chiếm đoạt của công dân Mỹ thành cơ sở của Đảng Uỷ, Hội Đồng Nhân Dân, Uỷ Ban Nhân Dân, tại Sài Gòn (ảnh BPSOS)
Thành phần thứ hai gồm những tài sản bị cưỡng chế theo Luật Đất 13/2003/QH11, được Quốc Hội Việt Nam thông qua cùng ngày với Nghị Quyết 23/2003/QH11. Luật này hợp pháp hoá chính sách cưỡng chế đất của dân, làm lan rộng tình trạng “dân oan”. Trong số dân oan có cả những người Mỹ gốc Việt. Đó là những người khi bỏ nước ra đi đã để lại nhà, đất cho người thân sử dụng, nhưng vẫn giữ quyền sở hữu; cũng có những trường hợp người Mỹ gốc Việt thừa hưởng nhà, đất sau khi bố mẹ qua đời ở Việt Nam. Chỉ riêng trong vụ Thành Phố Đà Nẵng cưỡng chế đất ở Giáo Xứ Cồn Dầu năm 2010, có ít ra 12 trường hợp công dân Mỹ bị mất tài sản. Chúng tôi cũng phát hiện một số trường hợp tương tự trong những vụ cưỡng chế đất khác.
Tài sản để lại ở miền Bắc thì sao?
Cũng vậy, nhà, đất của những người di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 cũng bị nhà nước tạm thời quản lý mãi cho đến khi bị quốc hữu hoá theo Nghị Quyết 23/2003/QH11. Họ ra đi một cách hợp pháp, dưới sự bảo hộ của quốc tế trên căn bản Hiệp Định Geneva. Trên nguyên tắc, 2 năm sau sẽ có tổng tuyển cử để thống nhất 2 miền; họ sẽ trở về quê quán và lấy lại nhà đất. Nhưng tổng tuyển cử đã không xảy ra và chiến tranh đã cản trở không cho họ hồi hương. Nhiều người Bắc di cư đã bỏ nước ra đi sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 và đến Hoa Kỳ định cư. Phần lớn các trường hợp này cũng có tài sản ở trong Nam. Họ đã trở thành công dân Hoa Kỳ trước khi tài sản ở ngoài Bắc và trong Nam bị quốc hữu hoá theo Nghị Quyết 23/2003/QH11.
Căn nhà của công dân Mỹ, được xem là di sản văn hoá, bị chính quyền Hà Nội chiếm đoạt
Căn nhà cổ kính bị phá bỏ, thay vào đó là khách sạn cao cấp ở ngay trung tâm Hà Nội
Khi nào Uỷ Hội FCSC mở hồ sơ can thiệp?
Uỷ Hội FCSC không giải quyết hồ sơ đơn lẻ mà giải quyết cùng lúc nhóm hồ sơ liên quan đến một quốc gia, được mệnh danh là “Chương Trình Đòi Bồi Thường” (Claims Program), như là Chương Trình Đòi Bồi Thường Cuba, Chương Trình Đòi Bồi Thường China… Quốc Hội phải thông qua luật để mở một chương trình đòi bồi thường, kèm với ngân sách để Uỷ Hội FCSC thuê nhân viên cứu xét hồ sơ. Đó chính là điều mà chúng tôi đang vận động.
Thủ tục của Uỷ Hội FCSC
Như đã nói, đến nay Uỷ Hội FCSC đã giải quyết 660,000 hồ sơ thuộc 43 chương trình đòi bồi thường khác nhau. Khi một chương trình được mở, Uỷ Hội FCSC sẽ thông báo thời hạn nhận hồ sơ, thường là 1 đến 2 năm. Họ sẽ cứu xét từng hồ sơ và định mức bồi thường theo tiêu chuẩn của họ. Nếu không đồng ý với quyết định của Uỷ Hội FCSC, đương đơn có quyền khiếu nại hay bổ túc thông tin. Trong khi đó, chính quyền tịch thu tài sản của công dân Hoa Kỳ không có quyền biện bạch hay khiếu nại.
Sau khi hoàn tất việc cứu xét tất cả hồ sơ, Uỷ Hội FCSC báo cáo Quốc Hội và chuyển quyết định của mình cho Bộ Ngoại Giao và Bộ Ngân Khố và tuyên bố đóng chương trình. Bộ Ngoại Giao có trách nhiệm “đòi nợ” cho công dân Hoa Kỳ, còn Bộ Ngân Khố thì lo “siết nợ”, nghĩa là truy tìm tài sản của quốc gia mắc nợ để tịch thu và bán đấu giá nhằm trả tiền cho công dân Hoa Kỳ, nếu có tình trạng quỵt nợ.
Cần các giấy tờ gì khi nộp hồ sơ?
Để vận động Quốc Hội mở Chương Trình Đòi Bồi Thường Việt Nam, chúng tôi lọc ra một số hồ sơ với đầy đủ giấy tờ và tính thuyết phục.
Tuy nhiên, khi một chương trình đã được mở, Uỷ Hội FCSC khá uyển chuyển về cách chứng minh quyền sở hữu tài sản. Tốt nhất là bằng khoán nhà, đất. Bằng không, họ chấp nhận chứng từ “cấp 2” như là giấy khai sinh, hôn thú, khai tử… có ghi địa chỉ nhà, đất; hoặc bản trích lục ở nhà thờ, nhà chùa, hội thánh… nếu làm lễ thành hôn hay ma chay theo thể thức tôn giáo. Nếu như không có cả các giấy tờ cấp 2 này, đương đơn có thể dùng chứng từ “cấp 3” như là hình chụp đám cưới, sinh nhật… tại nhà, đất của mình, và giấy xác nhận của hàng xóm hay những người ở vị trí làm chứng.
Nếu quý vị đang không có bất kỳ một chứng từ nào, chúng tôi sẽ nghiên cứu hồ sơ và hướng dẫn cách để tìm ra chứng từ.
Căn nhà của công dân Mỹ ở Bến Vân Đồn nay đã chuyển cho người khác sử dụng (ảnh BPSOS)
Đã từng có Chương Trình Đòi Bồi thường Việt Nam?
Đúng vậy, ngày 28 tháng 12 năm 1980 Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua luật để mở chương trình giải quyết các đơn đòi bồi thường của công dân Mỹ đã bị tịch thu tài sản ở Việt Nam. Lúc ấy, Quốc Hội chỉ nghĩ đến những công dân Mỹ làm việc hay lập gia đình ở Việt Nam trước 30 tháng 4, 1975. Khi cuộc chiến tàn, họ về lại Hoa Kỳ và tài sản của họ ở Việt Nam bị chính quyền cộng sản tịch thu (chứ không phải quản lý) theo Quyết Định 111/1977/CP ban hành ngày 14 tháng 4, 1977.
Thời hạn để nộp đơn là 26 tháng 2 năm 1981 đến 25 tháng 2 năm 1983. Đúng 3 năm sau, 25 tháng 2 năm 1986, Uỷ Hội FCSC hoàn tất việc cứu xét đơn. Trong tổng số 534 hồ sơ mà họ nhận được, Uỷ Hội FCSC chấp nhận 192 hồ sơ là hợp lệ với số tiền bồi thường tổng cộng là $99,471,983.51, cộng với 6% lãi suất mỗi năm. Năm 1995, Việt Nam chấp nhận trả 208 triệu Mỹ kim (tính cả tiền lãi) là điều kiện để bang giao với Hoa Kỳ.
Làm sao để vận động Quốc Hội mở chương trình cho người Mỹ gốc Việt?
Không cách nào khác hơn là vận động sự ủng hộ của đa số dân biểu và thượng nghị sĩ liên bang. Muốn thế, chúng tôi sẽ cần khoảng 2 nghìn hồ sơ ở 30 đến 40 tiểu bang khác nhau. Chúng tôi sẽ lập các phái đoàn để gặp các dân biểu và thượng nghị sĩ nhằm kêu gọi họ bảo vệ tài sản của cử tri. Mỗi phái đoàn đều sẽ có người với kiến thức chuyên môn đi cùng với những người bị chính quyền Việt Nam chiếm đoạt tài sản.
Chúng tôi đã bắt đầu cuộc vận động và sẽ bắt đầu đẩy mạnh vào đầu năm 2018.
Tài sản chiếm đoạt của công dân Mỹ nay được giao cho Công Ty Thương Mãi Tỉnh Cần Thơ
Thời gian là bao lâu?
Các người Mỹ bị tịch thu ở tài sản ở Việt Nam đã phải mất 16 năm. Sau khi chính phủ Việt Nam ra quyết định tịch thu tài sản của họ, họ phải mất 3 hơn năm để thuyết phục Quốc Hội mở chương trình đòi bồi thường. Sau đó, Uỷ Hội FCSC phải mất hơn 5 năm để hoàn tất việc cứu xét hồ sơ. Rồi đến hơn 8 năm sau, chính quyền Việt Nam mới đồng ý trả nợ.
Có cách nào để rút ngắn thời gian?
Chúng ta có thể rút ngắn thời gian ở cả 3 công đoạn: vận động mở chương trình, cứu xét hồ sơ, và đòi nợ.
Chúng ta có thể rút ngắn giai đoạn vận động bằng cách tổ chức nhiều phái đoàn để gặp gỡ dân biểu và thượng nghị sĩ. Muốn thế, chúng tôi sẽ cần tổng cộng khoảng 2,000 hồ sơ nằm rải ở nhiều thành phố và tiểu bang. Bắt đầu tháng 1 năm 2018, chúng tôi sẽ tăng nỗ lực thu thập hồ sơ.
Nếu chương trình đòi bồi thường được mở ra, chúng ta có thể rút ngắn giai đoạn cứu xét hồ sơ bằng cách duyệt trước và chuẩn bị thật đầy đủ cho mỗi hồ sơ trước khi nộp cho Uỷ Hội FCSC.
Chúng ta có thể rút ngắn thời gian đòi nợ bằng cách vận dụng luật pháp Hoa Kỳ để trừng phạt quốc gia quỵt nợ. Tu Chính Án Helms (năm 1994) ấn định là phải cắt viện trợ cho quốc gia ấy và ngăn chặn các định chế tài chính quốc tế không cho quốc gia ấy vay vốn. Luật Mậu Dịch năm 1974 không cho phép Hoa Kỳ ưu đãi thuế quan đối với quốc gia ấy. Đó là chưa kể Bộ Ngân Khố có thể siết tài sản của quốc gia quỵt nợ.
Chúng tôi đã thuê 2 hãng luật nhiều kinh nghiệm để hỗ trợ trong cả 3 công đoạn này.
Nhà chiếm đoạt của công dân Mỹ thành cơ sở của công ty quốc doanh Vietnam Airlines (ảnh BPSOS)
Có phải đóng lệ phí?
Từ tháng 6 năm 2017 chúng tôi đã dùng quỹ của tổ chức, tổng cộng trên 100 nghìn Mỹ kim, để thuê 2 hãng luật nhiều kinh nghiệm. Nếu vận động thành công Quốc Hội mở chương trình đòi bồi thường cho người Mỹ gốc Việt, hai hãng luật này sẽ soạn hồ sơ để nộp cho Uỷ Hội FCSC mà thân chủ không phải trả trước lệ phí. Họ này sẽ khấu trừ lệ phí và tính thù lao theo tỉ lệ phần trăm (%) từ số tiền được bồi thường.
BPSOS tính lệ phí cho việc dịch tài liệu tiếng Việt sang tiếng Anh, nếu người nộp đơn không có sẵn bản tiếng Anh. Chúng tôi tính giá thị trường là 10 cents/chữ (tương đương khoảng US $65 cho mỗi trang chữ viết hoặc $30 cho mỗi trang bằng khoán). Chúng tôi cũng sẽ tính $100 cho việc biên soạn hồ sơ bằng tiếng Anh để nộp cho các dân biểu và thượng nghị sĩ. Ghi chú: Lệ phí này không áp dụng cho khoảng 30 hồ sơ tiên khởi mà thân chủ đã đồng ý đóng $1,000 cho mỗi hồ sơ. Đây là những hồ sơ chúng tôi ưu tiên dùng cho vận động trong thời gian thu thập thêm hồ sơ mới.
Một số người gửi hồ sơ cho biết rằng họ quyết tâm đòi tài sản là vì công lý chứ không cần số tiền bồi thường; họ đã ký giấy cống hiến toàn bộ số tiền bồi thường,nếu lấy được, cho các công tác nghĩa hiệp của BPSOSa. Chúng tôi hoàn toàn không tình lệ phí đối với các hồ sơ này.
Triển vọng thành công là bao nhiêu?
Quan trọng nhất là vận động được Quốc Hội mở chương trình đòi bồi thường. Triển vọng thành công tuỳ thuộc phần lớn vào số hồ sơ chúng tôi có trên tay để chứng minh với các nhà làm luật rằng cử tri của họ bị ảnh hưởng. Càng nhiều hồ sơ thì tính thuyết phục càng cao, và chúng tôi càng vươn đến được nhiều thành viên Quốc Hội.
Chúng tôi không thể bảo đảm kết quả nhưng chúng ta hãy nghĩ đến 660,000 hồ sơ liên quan đến 43 quốc gia đã được Uỷ Hội FCSC giải quyết. Người Mỹ gốc Việt không là trường hợp đầu tiên hay duy nhất. Người khác làm được thì chúng ta cũng làm được.
Trong tiếp xúc, chúng tội gặp một số ít người hoàn toàn hoài nghi về triển vọng thành công. Chúng tôi xin họ ký giấy uỷ quyền đòi bồi thường và hiến tặng toàn bộ số tiền bồi thường cho BPSOS. Họ sẽ chẳng mất mát gì vì không hề kỳ vọng, nhưng lại giúp chúng tôi có thêm hồ sơ dùng để vận động Quốc Hội.
Liệu Việt Nam có thể “làm khó” người đứng tên đòi bồi thường?
Một số người cho biết rằng khi họ về Việt Nam đòi lại tài sản thì được bảo rằng phải đóng thuế và trả tiền bảo trì cho nhà nước vì đã giữ hộ căn nhà trong mấy chục năm, tính ra vượt quá số tiền bồi thường. Những người này đành bỏ cuộc. Có người lại cho biết rằng, giới chức thẩm quyền ở Việt Nam đổ vấy rằng nhà của họ nay đã bán cho người khác rồi, hãy tìm chủ mới mà thương lượng. Những người này đã hành xử trong cương vị công dân Việt Nam, nép mình dưới luật Việt Nam để “xin” chính quyền Việt Nam trả lại nhà. Kết quả không có gì là đáng ngạc nhiên.
Cách làm của chúng tôi hoàn toàn khác. Chúng tôi đứng trên cương vị công dân Hoa Kỳ để đòi chính quyền Hoa Kỳ can thiệp theo luật Hoa Kỳ. Chúng tôi chỉ làm việc với Quốc Hội, Toà Bạch Ốc Uỷ Hội FCSC, Bộ Ngoại Giao, và Bộ Ngân Khố Hoa Kỳ mà không hề đếm xỉa đến chính quyền Việt Nam.
Căn nhà cổ ở Hà Nội chiếm đoạt của công dân Mỹ nay trở thành quán cà-phê
Chương trình đòi tài sản có giúp cho các nạn nhân ở các quốc gia khác không?
Thưa không. Luật Hoa Kỳ chỉ bảo vệ tài sản của công dân Hoa Kỳ. Các quốc gia khác có thể có luật tương tự mà chúng tôi không biết. Hy vọng là nỗ lực của chúng tôi ở Hoa Kỳ sẽ gợi ý cho các quốc gia này làm theo hoặc là cơ sở để cộng đồng người Việt ở các quốc gia này vận động chính quyền của mình.
Có phương cách nào cho người bị tịch thu tài sản khi chưa là công dân Hoa Kỳ?
Luật Hoa Kỳ cho phép những người chưa nhập tịch Hoa Kỳ khi tài sản bị tịch thu nhưng giờ đây đã là công dân Hoa Kỳ kiện chính quyền đã tịch thu tài sản của mình ra toà án Hoa Kỳ. Chúng tôi đã làm việc với một hãng luật để nghiên cứu một số hồ như vậy và chuẩn bị để sẵn sàng nộp đơn kiện. Tuy nhiên, chúng tôi đang dồn mọi nỗ lực để vận động Quốc Hội mở chương trình đòi bồi thường qua Uỷ Hội FCSC giải quyết. Sau đó, chúng tôi mới xúc tiến vụ kiện.
Chương trình đòi tài sản có giúp gì cho các “dân oan” ở Việt Nam?
Tuỳ. Như đã trình bày, nhiều vùng đất ở Việt Nam có lẫn tài sản của công dân Hoa Kỳ, như trường hợp Giáo Xứ Cồn Dầu. Khi cưỡng chế các khu đất ấy, chính quyền Việt Nam xâm phạm tài sản của công dân Hoa Kỳ. Trong các trường hợp như vậy, chúng tôi sẽ phối hợp với các chủ nhân có quốc tịch Mỹ ấy để đẩy lùi chính sách cưỡng chế, như đã xảy ra đối với Giáo Xứ Cồn Dầu ở Thành Phố Đà Nẵng.
Cách nào để tiếp tay?
Mục tiêu của chúng tôi là đạt số 2,000 hồ sơ trong 6 tháng tới; hiện nay chúng tôi mới chỉ có khoảng 200 hồ sơ. Quý vị nào đã nộp hồ sơ và đã biết ít nhiều thể thức của chúng tôi, nay có thể tiếp tay bằng cách giải thích cho người quen và hướng dẫn họ cách chuyển thông tin cho chúng tôi.
Mọi người khác và giới truyền thông Việt ngữ có thể tiếp tay bằng cách giúp phổ biến bài viết này. Chúng tôi xin trân trọng cảm ơn.
Có thể truy tìm thông tin ở đâu?
Chúng tôi lưu trữ các thông tin cập nhật về chương trình đòi tài sản tại: http://doitaisan.org/
Nếu có thắc mắc hay muốn nộp hồ sơ, xin liên lạc bằng email: taisan@bpsos.org hoặc số điện thoại: 703-538-2190.
Tài sản chiếm đoạt của công dân Mỹ nay là phòng khám bệnh của Thành Phố Đà Nẵng (ảnh BPSOS)