Trang

Thứ Bảy, 16 tháng 12, 2017

2476. BNS HÒA BÌNH CHUNG SỐNG. SỐ 02.

THIÊN CHÚA GIÁO & CAO ĐÀI GIÁO.

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (ĐĐTKPĐ) hay Đạo Cao Đài 1926 do cơ bút chỉ dạy các bậc tiền bối lập thành. Cơ bút là phương tiện để kết hợp giữa con người (hữu hình) và các đấng thiêng liêng (vô hình). Những lời dạy của các đấng được tuyển chọn và tập hợp lại gọi là Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Theo lời Đức Hộ Pháp (khi cầm quyền Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng) thì đó là Thiên Thơ của ĐĐTKPĐ.
Noel 1925 là bài đầu tiên trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển. Tính đến Noel 2017 thì đã 92 năm. Trước thềm Noel 2017 chúng tôi mạo muội bàn luận đôi điều.

A/- VĂN MINH THIÊN CHÚA GIÁO.
Ngày sinh, ngày mất của Đức Chúa Giêsu có rất nhiều tranh luận. Đó cũng là điều thường thấy về các bậc vĩ nhân. Tuy nhiên chúng ta có thể ghi nhận: Ngài sinh ra trong một gia đình có phần nghèo khó, từ bé đôi lúc Ngài có những cử chỉ hay lời nói lạ thường. Mãi đến 30 tuổi Ngài thọ Lễ Vượt Qua (thường gọi Lễ Rửa Tội) và khởi sự rao giảng giáo lý. Ngài bị đóng đinh năm 33 tuổi. Nghĩa là 03 năm sau khi truyền giáo.
Từ lời dạy của Đức Chúa Giêsu các môn đệ đã ghi chép lại thành Kinh Thánh (Tân ước). Kinh Thánh là nguồn gốc để Thiên Chúa Giáo xây dựng nên nền văn minh rực rỡ cho nhân loại như chúng ta đang thấy.
Ngày nay nhân loại:
./- Về đi lại: Đi trên mặt biển như đi trên đất bằng. Đi trên mây trên gió nên thoát ẩn, thoát hiện sáng ở châu lục nầy chiều đã sang châu lục khác.
./- Về sức khỏe: Chữa lành được những bệnh nan y. Đem lại mái tóc xanh cho người đầu bạc, đem lại hàm răng đều như hạt bắp và trắng bóng cho nhiều người… Khoa thẩm mỹ có thể biến một cô gái bình thường thành một giai nhân tuyệt sắc… Nếu cái răng, cái tóc là gốc con người thì văn minh hiện nay đã làm thay đổi cái gốc ấy mạnh mẽ.
./- Về thức ăn: từ bánh mì ít, cá ít ngày nay thừa mứa ra… rượu mổi ngày một ngon hơn…
Tất cả những điều kể trên đã được báo trước trong Kinh Thánh qua các ẩn dụ.
Nhiều phát minh lớn xuất lớn xuất phát từ nhà thờ. Cho nên chúng tôi nhận định sự ban ân của Thiên Chúa cho nhân loại chính là khơi phát ý tưởng để xây dựng nền văn minh hiện nay.
Nhà bác học Einstein nói rằng: Ý tưởng là quan trọng số một.
Theo đó Kinh Thánh đã ghi chép việc Đức Chúa Giêsu đi trên biển như đi trên đất bằng, chữa được nhiều bệnh nan y, làm cho nước thành rượu, từ một ít bánh mì và cá thành rất nhiều…. nghĩa là Kinh Thánh đã gieo những ý tưởng trên (cung). Kinh Thánh cung cấp ý tưởng, cung cấp nguồn cảm hứng và nhân loại cầu học để biến ý tưởng thành hiện thực.
Nhân loại tiếp nhận học hỏi, nghiên cứu và biến thành hiện thực (cầu). Đó là qui trình của luật: CUNG CẦU.
Đó là sự đóng góp của Thiên Chúa Giáo cho nhân loại.
Đức Phật Thích Ca dạy rằng: Ta là Phật đã thành các ngươi là Phật sẽ thành. Đem lời dạy nầy để soi sáng luật cung cầu nêu trên: Đức Chúa Giêsu làm điều phi thường cho một số ít người thọ hưởng thì ngày nay nền văn minh của Ngài cũng mang đến những điều như vậy cho nhân loại hưởng dụng. Chủ thể thực hiện trong kinh thánh là Đức Chúa Giêsu và một số cá nhân hưởng dụng. Còn chủ thể thực hiện và hưởng dụng trong nền văn minh từ Đức Chúa Giêsu tạo ra là nhiều người. 
Từ tôn giáo đã tạo nên văn minh. Tôn giáo là hình, văn minh là cái bóng dáng của tôn giáo. Tôn giáo như thế nào thì xã hội như thế ấy. Cái hay, cái kém của tôn giáo được thể hiện qua xã hội.
B/- THIÊN CHÚA GIÁO ĐÓNG GÓP CHO VIỆT NAM.
Về phương diện tín ngưỡng: Thiên Chúa Giáo đem đến cho dân tộc Việt Nam một nền tín ngưỡng mới. Nền tín ngưỡng ấy lúc đầu có xung đột với tín ngưỡng Á Đông nhưng sau đó hai bên tự thu xếp với nhau trong tinh thần hòa bình và chung sống với nhau như chúng ta đang thấy.
Sự xung đột đó là gì?
Xin thưa rằng Việt tộc có phong tục là thờ cúng ông bà và khi kỉnh lễ có thắp hương. Đây là điều mà Công Giáo không có, nhưng ngày nay ta thấy người theo Thiên Chúa Giáo tại Việt Nam vẫn có thực hiện 02 điều kể trên.
Về phương diện xã hội: Thiên Chúa Giáo với tư cách là một tôn giáo có tổ chức có qui củ, đào tạo giáo sĩ, hướng dẫn con chiên thật chu đáo… cho nên đã giúp cho người Việt tăng được tính tổ chức theo khoa học trong đời sống.
Có tổ chức dành cho thanh niên theo công giáo….
Về phương diện kiến trúc: Nhà thờ thường là những công trình kiến trúc tân kỳ, vững chắc… và ngày nay ta thấy các ngôi chùa Phật, Đạo Tràng, Thánh Thất… cũng theo cách kiến trúc đó…
Trong lịch sử của Phật Giáo thì những ngôi chùa thường là nhỏ và ẩn mình sau những hàng cây… nhưng ngày nay chùa của Phật Giáo từ Á sang Âu… đã vươn mình trên nền trời xanh thẳm…
Theo nhận định của chúng tôi thì sự đóng góp lớn lao nhất của Thiên Chúa Giáo cho Việt Nam chính là chữ quốc ngữ. (1). Căn cứ vào đâu để nhân định là lớn lao nhất?
Xin thưa rằng căn cứ vào 03 yếu tố:
./- Khi nền văn minh phương Tây lan tỏa sang phương Đông thì các vị truyền bá giáo lý Thiên Chúa Giáo đóng vai trò rất quan trọng. Chữ viết khác biệt là một trở ngại rất lớn cho việc truyền giáo. Cho nên các vị truyền giáo tại nhiều quốc gia đều muốn có chữ quốc ngữ theo mẫu tự La Tinh, điển hình như: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan...  Nhưng không có một dân tộc nào ở Châu Á có được chữ quốc ngữ theo mẫu tự La Tinh.  Duy nhất Việt Nam có được chữ quốc ngữ theo mẫu tự La Tinh.
./- Chữ quốc ngữ dễ học, dễ nhớ nên phổ biến dễ dàng. Nó giúp cho người Việt tiếp cận với khoa học, tư tưởng và cách tổ chức xã hội của phương Tây. Song song đó những nét cơ bản của phương Đông cũng được phổ biến rộng rãi đến mọi tầng lớp. Nhờ vậy dân trí được nâng cao và đời sống thay đổi. Có rất ít người Việt bị mù chữ.
./- Thời toàn cầu hóa: Nó giúp cho người Việt hội nhập dễ dàng mà vẫn giử được bản sắc dân tộc.
C/- ĐẠO CAO ĐÀI:  HƯỞNG DỤNG & PHÁT HUY THÀNH QUẢ THIÊN CHÚA GIÁO.
Nhiệm vụ của Đạo Cao Đài là xây dựng một nền văn minh mới cho nhân loại. Đó là nền văn minh: Cao Đài Giáo (xét về nguồn gốc xuất phát) hay văn minh tâm linh (Với tư cách nhân chứng: Con người có thể tiếp xúc với thế giới vô hình) hay Văn minh nhơn đạo (nền văn minh mở ra con đường để con người đi từ phẩm Người à Thần à Thánh à Tiên à Phật). Nhơn đạo là con đường của con người phải đi để lập vị cho mình (không phải chữ nhơn đạo theo nghĩa giúp đở người hoạn nạn).
Lập ĐĐTKPĐ là lập nền Quốc Đạo. Có nghĩa là tự thân tôn giáo phải có tổ chức minh bạch, và định chế rõ ràng như cách thức tổ chức một quốc gia. ĐĐTKPĐ có qui định, có tổ chức, có định chế minh bạch để thế hệ sau nối tiếp thế hệ trước đưa con thuyền đạo đến mục tiêu đã định. (Chú ý rằng Quốc Đạo khác với Quốc Giáo.)
Bộ máy hành chánh tôn giáo như thế nào? Nhân sự trong bộ máy đó bao nhiêu người? Có bao nhiêu phẩm? Mổi phẩm có bao nhiêu người? Nhiệm vụ mổi phẩm là gì? Thượng tầng là ai? Hạ tầng là ai? Điều rất quan trọng là phải có định chế minh bạch cho người tín đồ tham gia vào mọi sinh hoạt tôn giáo.
Quốc gia có chánh tự thì Quốc Đạo cũng có chánh tự của nó.
Chánh tự của Đạo Cao Đài.: là tiếng An Nam. (1).
Kinh sách của ĐĐTKPĐ lấy chữ quốc ngữ làm chánh tự. Cho nên khi Đạo Cao Đài truyền bá đến đâu thì chữ quốc ngữ cũng được truyền bá đến đó. Đạo Cao Đài không phải chỉ hiện diện nơi phồn hoa đô hội mà đạo còn phải có mặt nơi ven trời góc bể để giúp đở chúng sanh. Cho nên trên đường thi hành sứ mạng thì Đạo Cao Đài mặc nhiên hưởng dụng và phát huy thành quả chữ quốc ngữ.
Khi sáng tạo ra chữ quốc ngữ các vị truyền đạo dùng để truyền bá tin mừng.
Đạo Cao Đài dùng chữ quốc ngữ để trình chánh một nền văn minh mới cho nhân loại. Trình chánh một nền văn minh mới để xây dựng tinh thần hòa bình, dân chủ, tự do cho nhân loại chính là một mô hình mà đạo cung ứng cho nhân loại.
Với những người nghiên cứu chuyên sâu về tôn giáo một cách khoa học thì họ phải tiếp xúc với chữ quốc ngữ mới nắm được cái tinh túy của nghi lễ, tổ chức, giáo lý, pháp luật tôn giáo.
Bản thân Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc cũng là người theo Đạo Công Giáo.
D/- TƯƠNG QUAN HAI NỀN VĂN MINH.
Những lời dạy của Đức Chúa Giêsu lập ra một nền văn minh. Những lời dạy của Đấng Cao Đài cũng đang tạo nên một nền văn minh. Vậy hai nền văn minh nầy dĩ nhiên là phải tương quan nhau. Cho nên khởi đầu của Thiên Thơ là bài vào ngày Noel 1925.
Nền văn minh của Đức Chúa Giêsu gầy dựng ra giải quyết phần vật chất cho nhân loại là điều đã hiển nhiên.
Nhưng về mặc tinh thần thì như thế nào?
Trong Kinh Thánh dạy về giá trị cao trọng của chữ hòa:
Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.
Đức Chúa Giêsu giải quyết nan đề chữ hòa thế nào?
Kinh Thánh dạy rõ:
Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất; Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa người ta với cha mình, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà.
Theo đây thì Đức Chúa Giêsu đem lại sự chia rẽ và bất hòa chứ không đem đến chữ hòa. Còn tại sao như vậy lại là một chuyên đề khác.
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo:
Gia Tô giáo chủ giải phần hữu sanh.
(Kinh Khi Về, câu 12.)
Nền văn minh của Đức Chí Tôn đến xây dựng là để đem lại hòa bình cho nhân loại. Cho nên Thầy dạy:
Thầy vui muốn cho các con thuận hòa cùng nhau hoài, ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng.
Hay: Dạy lẫn cho nhau đặng chữ hòa.
Pháp Chánh Truyền chú giải cũng dạy rõ: Cơ Đạo của Chí Tôn đến lập buổi Hạ ngươn Tam Kỳ Phổ Độ nầy duy lấy một chữ HÒA làm tôn chỉ.
Công thức xây dựng xã hội của ĐĐTKPĐ:
Cao Thượng Chí Tôn Đại Đạo Hòa Bình Dân Chủ Mục.
Đài Tiền Sùng Bái Tam Kỳ Cộng Hưởng Tự Do Quyền.
Trong tôn giáo cũng ẩn chứa những mô hình, công thức nhỏ để người đạo thực hành như một phòng thí nghiệm và từ đó lan tỏa ra cho phần còn lại trong nhân loại.
Nghĩa là Đức Chí Tôn cung cấp công thức, xây dựng bộ máy hành chánh, chỉ dẫn cách thức tuyển chọn nhân sự để thực hiện. Song song đó lập quyền cho nhân loại để tự nhân loại quyết định tương lai của chính mình (03 Hội lập quyền vạn linh).
Đạo có tam quyền phân lập và Đức Chí Tôn nắm quyền vi chủ nơi Bát Quái Đài cho nên ĐĐTKPĐ còn là nhân chứng cho việc hiệp nhất giữa Trời và Người.
Hơn hai ngàn năm trước nhân loại còn ở trong thời kỳ văn minh nông nghiệp. Cho nên nhân loại dùng lời dạy của Đức Chúa Giêsu để nâng cuộc sống vật chất lên. Từ nâng cuộc sống vật chất lên thì nhân loại mới bước sang văn minh công nghiệp rồi điện và điện tử.
Năm 1926 ĐĐTKPĐ ra đời để cung ứng bài bản cho nhân loại xây dựng một nền văn minh mới. Nhân loại có nhu cầu thì học hỏi, nghiên cứu và thực thi theo qui luật cung cầu.
Theo quan niệm của Đông phương về sự thành lập vũ trụ thì: Từ hư vô chi khí tạo ra ngôi Thái Cực (số 1). Từ có Thái Cực mới chia ra Lưỡng Nghi (số 2), (khi sanh Lưỡng Nghi, thì đã có ngũ hành ẩn chuyển); sau đó sanh ra Tứ Tượng (số 4); Tứ Tượng mới sinh ra Bát Quái (số 8); có Bát Quái rồi mới sinh ra Càn Khôn Thế Giới; sau đó mới đến Càn Khôn Vạn Vật.
Các lời dạy của Đức Chúa Giêsu được môn đệ ghi lại trong 04 bộ Kinh Thánh, cả 04 bộ nầy đều ghi từ đầu chí cuối. Tín đồ Thiên Chúa Giáo đi nhà thờ dự lễ vào 04 ngày chủ nhật trong tháng. Cho nên đó là nền văn minh Tứ Tượng.
Các lời dạy của Đức Chí Tôn được tuyển lại thành 02 quyển (một và hai). Tín đồ Cao Đài đi Tòa Thánh, Thánh Thất, Điện Thờ vào 02 ngày Sóc, Vọng hàng tháng. Cho nên đó là nền văn minh Lưỡng nghi.
Từ Tứ tượng tiến lên Lưỡng Nghi đó là ý nghĩa 02 nền văn minh xét về dịch lý.

E/- LỜI DỰ ĐOÁN.
Tổ tiên ta có tinh thần cầu tiến nên sẳn lòng hấp thụ tinh hoa của các nền văn minh khác và tiêu hóa để biến thành hình vóc của chính Việt tộc.
Tinh thần Tam giáo đồng nguyên là một minh chứng cho sự tiêu hóa ấy. Nhờ vậy đã xây dựng nên thời kỳ Lý Trần rạng rỡ trong lịch sử. Gần đây hơn là sự thành tựu của chữ quốc ngữ.
Đạo Cao Đài hưởng dụng và phát huy thành quả của Thiên Chúa Giáo, vậy thì chúng ta có sự đóng góp gì?
Kinh Thánh dạy:
Khi tân lang còn trong tân phòng thì không phải ăn chay nhưng khi tân lang đã đi thì phải ăn chay.
Một đồng xu mua được nhiều con chim nhưng trong mắt của Thiên phụ thì không có sinh mạng nào là bỏ đi.
Do vậy chúng tôi nghĩ rằng trong tương lai, giáo dân và giáo hội Công Giáo sẽ hiệp nhau để thực hành đúng lời Thiên Chúa dạy về hạnh ăn chay. Giáo hội sẽ xem xét và lập luật ăn chay cho Tín đồ lẫn Chức sắc./.
Đạo Hữu Dương Xuân Lương.
SDT: 469 642 4667.
Skype: thu.john2.














TÔN GIÁO ĐỐI VỚI NỀN VĂN MINH THỜI ĐẠI.
Đền Thánh đêm 29/9/ Nhâm Thìn (1952).
Đức Hộ Pháp. (theo bản BTK).

Đêm nay Bần Đạo giảng về Tôn giáo đối với một nền văn minh của thời đại.
Hai chữ văn minh thiên hạ đã nói, chúng ta cũng nên tìm hiểu nghĩa lý của nó, và tìm cho biết cái nguồn cội đã sản xuất nó. Văn, chúng ta ngó thấy thiên hạ cũng gọi là văn chương hay là văn hóa. Nhờ văn hóa mà đã ghi rõ những gì từ trước đã lưu chiếu lại, những biến cố trong lịch sử của toàn nhơn loại, trong lịch sử của một quốc dân, xã hội và văn hóa, ấy là những văn từ đã lưu chiếu lại tạo một sự hiểu biết, để phổ hóa trong một sắc dân, trong một xã hội hay là toàn thể nhơn loại.
Ấy vậy chữ văn chương chúng ta đã ngó thấy lưu chiếu lại một lịch sử của toàn thể một thế hệ, của một xã hội trong một thời đại. Văn chương ấy hữu ích thế nào, chúng ta chằng cần gì luận cũng đã chán biết. Lạ thay! Con người bao giờ cũng có một cái linh. Cái linh tâm lạ lùng lắm! Vả chăng loài người bao giờ cũng sản xuất trong một đời sống của mình, đời sống ấy từ 1 dĩ chí 100 tuổi, chúng ta đã ngó thấy họ nhớ lại hết và tìm tòi biết mãi tới, họ có lạ lùng ấy. Họ sống trong một thế hệ của họ, mà họ đã có năng lực hiểu biết cả căn bản trong thế hệ đã qua rồi, họ còn có thể định đoạt cái thế hệ sẽ tới. Đó là một điều phi thường từ trước tới giờ không có phương gì để lại, chỉ có căn bản là làm cho phát khởi cái đó do cảm động và nhớ.
Văn chương lưu chiếu lịch sử làm một bài học để tìm tòi hiểu biết thế tình nhơn loại, thì văn học phải phổ hóa tinh thần và vật hình của con người đời. Nếu muốn phổ hoá cho đặng cái vật hình của con người, thì chúng ta ngó thấy văn chương trên lịch sử, nó phải có một năng lực nuôi cả tinh thần và hình thể của người mà chớ.
Hễ muốn nuôi cho đặng cái vật hình của họ vẫn dễ, còn nuôi tinh thần của họ rất khó. Bởi vì tinh thần ấy nếu không do Đạo Giáo, chẳng hề khi nào có năng lực phổ hóa họ đặng. Chúng ta ngó thấy mỗi phen Đức Chí Tôn đến, hay là sai vị Giáo chủ nào đến đặng tạo Tân dân bao giờ cũng vậy. Trước tiên cái nền văn minh đến, thì nền Đạo Giáo đã thành lập trước, bởi Đạo Giáo là căn bản của nền văn minh đó vậy.
Đạo là khuôn khổ, còn văn minh là hình chất, Đạo là hình, văn minh như bóng. Chúng ta đã quan sát thấy văn minh sản xuất hình thể và tinh thần là do một nền Tôn giáo đã tạo dựng nó ra. Chúng ta ngó thấy như Đạo Phật đã tạo ra một thế hệ, thế hệ ấy nó có năng lực tạo cả hình chất của Tân dân Phật Giáo, tức nhiên trong tình trạng của họ, họ tỏ ra rằng: Họ là người trong Đạo Giáo. Chúng ta đã ngó thấy các vị Thầy tu nhà Phật, cạo đầu bận đồ vàng, bộ tịch của họ dù cho đi, đứng, nằm, ngồi, cử chỉ cái sống của họ đều trong khuôn khổ do nơi Đạo Giáo mà xuất hiện đặc biệt. Thiên Chúa Giáo, chúng ta để mắt quan sát cho tới hình thể tinh thần của họ, cử chỉ đều có vẻ đặc biệt riêng. Nho Giáo cũng vậy, Bần Đạo chẳng cần gì tả cho nhiều, cả thảy đều biết điều ấy rồi.
Còn trọng hệ hơn hết là cái nền văn minh lưu chiếu lại, chỉ có năng lực để bảo tồn được các Tân dân của mình tạo ra, cốt do tinh thần vi bổn. Chúng ta ngó thấy các nền Tôn giáo đã tạo văn minh hiện tại. Hiện nay còn cái hai nền văn minh. Thật ra từ Thượng cổ các nền văn minh đã lưu chiếu tại mặt địa cầu này vẫn nhiều. Tỉ như các nền văn minh tối cổ bên Âu Châu là văn minh: Grecque, Egypte, Romain hay (Rome). Còn bên Á Đông của chúng ta, văn minh của nhà Phật, văn minh của Đức Lão Tử, văn minh của Đức Khổng Phu Tử, Châu Công (kế Đức Khổng Phu Tử). Các nền văn minh ấy họ tạo Tân dân của họ thế nào Bần Đạo chẳng cần nói cả thảy các con cái Nam, Nữ cũng vậy đã quan sát.
Bần Đạo thuyết đêm nay cho đám thanh niên nam, nữ con cái của Đức Chí Tôn nên để ý và hiểu biết cho lắm. Chúng ta ngó thấy trước mắt kiểu vở của các nền văn minh đã có, là do nơi các Tôn giáo đã tạo. Đương nhiên bây giờ có hai nền văn minh trọng yếu hơn hết của tinh thần nhơn loại là: Văn minh của Phật Giáo và văn minh của Thiên Chúa Giáo. Hai nền văn minh tinh thần của hai Đạo giáo đó rất cao thượng. Bần Đạo chỉ nói rằng: Tốt đẹp không thể gì tả hình trạng ra cho đặng. Tại sao nó tốt đẹp ấy? Là nó có năng lực bảo sanh hình chất của nhơn loại, nó có thể bảo vệ cho đời sống tinh thần thiêng liêng của họ mà chớ.
Con cái của Đức Chí Tôn biết rằng: Các Tôn giáo xuất hiện rất có ích cho nhơn loại tại mặt thế gian này, về hình thể, tinh thần và nó phải làm thế nào bảo tồn sống còn của nhơn loại, mà trong sự sống ấy khó mà bảo tồn đặng sống còn tinh thần họ. Hỏi có phương pháp nào giải quyết cái khổ của họ đặng chăng? Bần Đạo đã giải nghĩa nào là thắng khổ, nào là tùng khổ, nào là giải khổ, đủ thứ hết thảy, trọng yếu hơn hết là phải tìm phương nào cho các nền văn minh ấy, phải chia sống với nhau, phải đừng có tranh sống với nhau, bởi chia sống thì tồn tại, bảo vệ được sống còn của nhơn loại, mà tranh sống tức nhiên phải tiêu diệt. Gương của hai vị Giáo Chủ đã lưu lại nơi mặt thế gian này, bên Á Đông, bên Âu Châu hai nền văn minh đặc biệt. Hai vị Giáo Chủ đó trước kia là gì chớ? Một người ăn mày cầm Bình Bát đi xin cơm đặng nuôi kẻ khó kẻ đói, đi bòn mót từ miếng vải rách đặng chầm khiếu mặc cho lành, tức là Đức Phật Thích Ca.
Còn cái người đã chia từ miếng bánh mì, từ miếng cá nuôi kẻ đói là Đức Chúa Jésus Christ, Ngài lấy sống của Ngài, Ngài chia cho kẻ đói, đến đổi Ngài phải nhịn miệng ăn của Ngài cho nó sống.
Gương hai vị tạo nền văn minh đó đẹp đẽ làm sao.


Mardi 11 Janvier 1927 (08-12-Bính Dần).

 

THÁI BẠCH

Chúng đẳng ngồi kiết tường nghe dạy:
Lão viết chậm, Thượng Phẩm Hiền Hữu dặn Sĩ Tải phải viết cho cẩn thận. Lịch rán đọc cho tử tế, bằng chẳng Lão đuổi ra ngoài ... nghe à.
Ðiệu văn Ðộng Ðình của Lão dạy chư Tiên, chư Phật, sau có truyền cho Bạch Vân Ðạo Sĩ gọi là Trạng Trình, song người học đặng có một điệu truyền thế gọi là điệu Bạch Vân. Lão lấy đề "Ngụ Ðời" nghe.
Ngụ Ðời:
Ðời hằng đổi, nước non không đổi,
Giữ nhơn luân nhờ mối Ðạo truyền.
Nhẫng lo trọng tước cao quyền,
Ðem thân trần cấu gieo miền trầm luân.
Biệt cành lá rụng đầy rừng,
Con thuyền Bát Nhã lỡ chừng độ duyên.
Sắc,
Tài,
Tửu,
Khí,
Lưng vơi lấy chí anh hùng,
Mượn gươm Thần huệ dứt lần trái oan.
Vụ chữ nhàn....
Giải nghĩa: Thầy là cội, chúng sanh là lá.... Phải lấy chữ anh hùng hoặc nhiều hay ít mà dứt oan trái đặng tu tâm dưỡng tánh, hầu vụ chữ nhàn.
(Trích từ Đạo Sử Q,2.)











TÌM HIỂU NGUỒN GỐC
CHÁNH TỰ ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ.
“Hay là sự nên hình của chữ quốc ngữ”.
(Bài từ BNS Thông Liên số 57).
Hoằng khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Đức Chí Tôn dạy ngày 29-7-Bính Dần (05-9-1926): ...Như Nhãn hiền đồ Thầy không muốn nói với con bằng tiếng Hớn Ngôn vì tiếng An Nam từ đây Thầy cho là Chánh Tự đặng lập Đạo của Thầy nên buộc phải nói rõ ràng với con.
Thời kỳ dấu diếm Thiên cơ đã qua rồi… (Đạo Sử Q.2. T. 237 bản in Hoa Kỳ)
Tiếng An Nam trước kia được ghi bằng chữ Nho, chữ Hán, chữ Nôm còn ngày nay được ghi bằng chữ quốc ngữ. Cho nên hiểu tiếng An Nam là chữ quốc ngữ chắc không có gì sai.
Tìm hiểu nguồn gốc chữ quốc ngữ và những vị hữu công trong công cuộc tạo ra chữ quốc ngữ là trọng tâm của bài nầy.
Theo luật cung cầu thì một công trình lớn lao, đem lại sự hữu ích cho xã hội ra đời cần những thành tố như:
-         Có người đề xuất ra sáng kiến.
-         Có sự cộng tác của những người cùng chí hướng.
-         Có người đúc kết công trình và trình bày ra trước xã hội.
-         Phù hợp với luật tiến hóa nên được xã hội chấp nhận.
Sự nên hình của chữ quốc ngữ cũng nằm trong thông lệ đó.
1- Hoàn cảnh nước Việt Nam vào lúc chữ quốc ngữ ra đời.
Trên danh nghĩa thì vẫn là triều Hậu Lê.
Nhưng thực tế thì quyền hành vào tay chúa; chúa Trịnh (miền Bắc còn gọi đàng ngoài) và chúa Nguyễn (miền Nam còn gọi đàng trong). Sử gọi đây là thời Trịnh Nguyễn phân tranh lấy sông Gianh làm ranh giới. 
2- Chữ quốc ngữ là gì?
Theo mặt chữ mà hiểu thì quốc ngữ là chữ của một nước.
Theo sử liệu còn lưu lại thì lúc đầu nước ta dùng chữ Nho, sau đến chữ Hán và tổ tiên ta rút từ chữ Nho và Hán ra tạo nên chữ Nôm dùng làm quốc ngữ. Do vậy nên cả ba loại chữ trên đều là chữ tượng hình.
Trước khi dùng chữ (theo mẫu tự latinh) hiện nay làm quốc ngữ thì nước ta dùng chữ Nôm làm chữ quốc ngữ. Nhiều vị giáo sĩ Tây Phương đến Việt Nam đều ghi nhận rằng nếu không có chữ Nôm thì họ đã tưởng Việt Nam là một phần của Trung Hoa.
Còn chữ quốc ngữ ngày nay chính là cách ghi âm tiếng An Nam bằng mẫu tự la tinh. Nó là chữ ký âm chứ không phải tượng hình. Từ chữ tượng hình sang chữ ký âm là khó khăn lớn nên Nhật, Tàu…đều thất bại.
3- Ai tạo ra chữ quốc ngữ?
Chữ quốc ngữ là công trình của nhiều người mà chủ yếu là các vị giáo sĩ Thiên Chúa Giáo. Các vị xuất phát từ nhiều nước như: Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý, Pháp…đến Việt Nam để truyền giáo. Dĩ nhiên cũng cần có sự hợp tác của dân bản xứ nhưng chỉ là phần nhỏ.
4- Nguyên nhân và mục đích.
Tại sao các vị giáo sĩ phải tìm cách ghi âm tiếng Việt theo mẫu tự latinh? và lập ra chữ quốc ngữ để làm gì?
Cuối thế kỷ 16 các vị giáo sĩ Thiên Chúa Giáo đã đến truyền giáo ở Việt Nam. Khi đó văn tự ở Việt Nam có chữ Nho, chữ Hán và chữ Nôm, cả ba loại chữ trên đều rất khó học, khó nhớ; do vậy mà dân chúng nói chung, con chiên nói riêng đa phần là mù chữ. Thứ nữa là chính các vị giáo sĩ lại không biết tiếng bản xứ nên công cuộc truyền giáo gặp khó khăn. Để vượt qua những trở ngại trên các vị đã nẫy sinh ra ý nghĩ sáng lập ra một loại chữ khác. Các vị tìm cách ghi âm tiếng An Nam bằng chữ quốc ngữ với mục đích là phổ biến giáo lý của Thiên Chúa Giáo (truyền bá tin mừng)  đến người Việt Nam.
5- Sơ lược về tiến trình thành lập.
Các sử liệu hay công trình nghiên cứu đáng tin cậy hiện nay đều đi đến kết luận: Chữ quốc ngữ là một sự nghiệp tập thể của nhiều vị giáo sĩ đến từ phương Tây. Các vị có nhiều quốc tịch khác nhau như: Ý, Pháp, Bồ Đào Nha… Công việc khởi đầu từ thế kỷ 17.
Năm 1651 ông Alexandre de Rhodes biên soạn cuốn tự điển Việt Bồ La theo mẫu tự Latinh. Tự điển được in và xuất bản ở Roma (Ý).
Trong lời tựa của cuốn Từ điển Việt Bồ La, ông cho biết sở dĩ ông soạn được Từ điển này là nhờ vào ba sự việc:
-         Thứ nhất là ông đã được học tiếng Việt với giáo sĩ De Pina là một người rất tinh thông tiếng Việt, người Bồ thứ nhất giảng tin mừng mà không cần thông dịch viên,
-          Thứ hai ông đã sử dụng hai tác phẩm viết tay, một Từ điển Việt Bồ của ông Gaspar d’Amaral và một Từ điển Bồ Việt của ông Barbosa, cả hai ông này đã mất sớm.
-         Thứ ba ông đã lưu trú tại Việt Nam cả thảy 12 năm.
(Phần thừa kế công sức người trước của ông rất có ý thức và ông đã nói rõ nhưng một số nhà nghiên cứu dưới chế độ cộng sản hiện nay lại viết là ông ăn cắp công trình của 02 vị giáo sĩ trước đó... Trong xã hội có một qui luật: Dân đã tin ai, đã thờ ai thì không sai bao giờ. Nên mấy bài viết nói xấu người có công và vô ơn sẽ đi vào sọt rác mà thôi)
* Các vị Giáo sĩ truyền giáo ở Nhật Bản, Triều Tiên và Trung Hoa cũng gặp khó khăn về bất đồng ngôn ngữ như các vị giáo sĩ ở Việt Nam. Họ cũng tìm cách ghi âm tiếng Nhật, Hàn, Trung Hoa theo mẫu tự La Tinh nhưng đều dang dở không đạt kết quả mỹ mãn như Việt Nam.
6- Một số văn bút của hậu học đúc kết sự nên hình chữ quốc ngữ:
6.1- Sử gia Ch.B.Maybon năm 1919 công nhận việc thành lập chữ quốc ngữ là một công cuộc chung, có nhiều giáo sĩ thuộc nhiều quốc tịch khác nhau, chứ không riêng gì giáo sĩ người Bồ Đào Nha.
6.2- Trong bộ Việt Nam văn học sử yếu (soạn tháng 6-1941), ông Dương Quảng Hàm có viết: “Việc sáng tác chữ quốc ngữ chắc là một công cuộc chung của nhiều người, trong đó có cả các giáo sĩ người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Pháp... Nhưng người có công nhất trong việc ấy là cố A-lịch-sơn Đắc Lộ, vì chính ông là người đầu tiên đem in những sách bằng chữ quốc ngữ, thứ nhất là một cuốn tự điển khiến cho người sau có tài liệu mà học và kê cứu”
6.3- Ông Đào Duy Anh cũng đồng ý tưởng như trên khi viết: “Xưa kia Việt ngữ vốn viết bằng chữ Nôm, nhưng từ khi phép học đổi mới thì Việt ngữ lại viết bằng một thứ chữ mới gọi là chữ quốc ngữ. Thứ chữ này do các nhà truyền giáo Giatô đặt ra. Vào khoảng thế kỷ XVII, khi các giáo sĩ mới sang nước ta, thì có lẽ mỗi người lấy mẫu tự của nước mình mà đặt ra một lối chữ riêng, để dịch tiếng bản xứ cho tiện việc giảng dạy tín đồ. Các lối chữ riêng ấy, sau do hai nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha, rồi sau đến cố A-lịch-sơn Đắc Lộ người Pháp tổ chức lại thành một thứ chữ thông dụng chung trong truyền giáo hội tức là thuỷ tổ của chữ quốc ngữ ngày nay”
6.4- Gần đây trong bộ lịch sử và văn hóa Việt Nam, ông Lê Thành Khôi, cho rằng việc thành lập chữ quốc ngữ đã bắt đầu do các giáo sĩ người Ý, nhất là người Bồ Đào Nha, tỉ như giáo sĩ Gaspar d’Amaral và Antonio Barbosa, nhưng người hoàn tất chính là giáo sĩ Đắc Lộ.
Tóm lại sự hình thành chữ quốc ngữ có thể chia ra làm ba thời kỳ:
* Thời kỳ sáng tạo từ năm 1621. (hay tiền Đắc Lộ)
* Thời kỳ xây dựng năm 1651. (hay thời Đắc Lộ)
* Thời kỳ phát triển từ năm 1867. (hay hậu Đắc Lộ)
Như vậy việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ rõ ràng là có nguồn gốc từ tôn giáo và mục đích là phụng sự cho tôn giáo (các vị tạo ra là giáo sĩ; tạo ra là để truyền bá giáo lý Thiên Chúa Giáo).
Có rất nhiều tôn giáo với các hình thức về thờ phượng, nghi lễ, tế tự… có ít nhiều khác nhau nhưng cho dù là tôn giáo nào cũng dạy con người làm lành lánh dữ và sống trong lẽ công bằng bác ái.
Thiên chúa giáo cũng không ngoài lẽ đó nên dùng chữ quốc ngữ để truyền bá điều lành, tạo ra tình thương, công bằng trong xã hội chính là làm đúng với ý chí những người tạo ra chữ quốc ngữ (văn dĩ tải đạo).
Còn như dùng chữ quốc ngữ để tạo ra bất công, chia rẽ, làm mất lẽ công bằng, bác ái là đã đi ngược với ý chí người tạo ra quốc ngữ (như thực dân pháp và các chế độ tạo bất công trong xã hội, viết theo đơn đặt hàng để gieo rắc thù hận giữa người và người…là đã đi ngược với ý chí các vị tạo ra chữ quốc ngữ thì cho dù có dựng bia kỷ niệm, có tôn vinh người tạo ra chữ quốc ngữ xét cho đến cùng thì đều là giả dối, vong ơn nên sẽ bị chơn lý viết bằng chữ quốc ngữ đào thải.
7- Thực dân pháp và các vị tiền bối dùng chữ quốc ngữ.
Thế kỷ 19 thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, sau đó chính quyền Pháp bắt buộc Nam Kỳ (là xứ thuộc địa) dùng chữ quốc ngữ trong hành chánh. Theo lẽ công bằng mà luận thì thực dân Pháp dùng chữ quốc ngữ như thế nào, với mục đích chi cũng không can dự đến những người sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Bởi lẽ nó không nằm trong dự phóng của những vị sáng tạo ra chữ quốc ngữ. Cũng như nhà sản xuất kia nghiên cứu cho ra đời chiếc xe gắn máy. Rồi khách hàng mua nó về sử dụng như thế nào đi nữa cũng không thể kết tội nhà sản xuất kia được.
Hay như nhà bác học Nobel phát minh ra thuốc nổ để giúp cho việc phá đá được dễ dàng, mục đích của ông là phục vụ việc xây dựng trong xã hội, nhưng sau đó các nhà chính trị, các nhà cầm quyền dùng đó để giết người thì cũng không vì lẽ đó mà kết tội ông Nobel được.
Đó là đứng trên quan điểm công bằng để đưa ra nhận xét trên chứ không đứng trên một lập trường chính trị nào hết.
Bởi vì đến 01-01-1882 chính quyền Pháp buộc Nam Kỳ (lúc đó là xứ thuộc địa của Pháp) phải dùng chữ quốc ngữ trong hành chánh. Việc bắt buộc nầy có liên quan đến nội dung nghị định ra ngày 6-4-1878 “về việc dùng tiếng An Nam bằng mẫu tự Latin” do thống đốc Nam Kỳ Lafont ký và ban hành.
Xuất phát từ mục đích tạo thuận lợi và cũng cố cho việc cai trị của Pháp nên họ cổ xúy và bắt buộc dùng chữ quốc ngữ. Các vị yêu nước chống thực dân Pháp cho dù là nhà nho yêu nước, cần vương hay văn thân đều thấy dụng ý của chính quyền Pháp nên ra sức chống lại việc dùng chữ quốc ngữ.
Nhưng sau đó chính các cụ thấy sự tiện ích của chữ quốc ngữ (dễ học, dễ nhớ) nên thay đổi hẳn quan điểm về chữ quốc ngữ. Các cụ ra sức mở trường nghĩa thục (như Đông Kinh Nghĩa Thục…) để dạy chữ quốc ngữ nhưng với mục đích hun đúc lòng yêu nước, truyền bá khoa học kỷ thuật, triết học, cổ xúy kinh thương, nâng cao dân trí…thì Pháp lại rơi vào thế gậy ông đập lưng ông nên khủng bố các cụ hòng nắm thế độc quyền dùng chữ quốc ngữ theo ý của họ…Các vị tiền bối yêu nước dụng vũ khí của địch để phá địch đó là sự thực đã diễn ra trong lịch sử dân tộc.
8- Đức Chí Tôn dùng Tiếng An Nam (chữ quốc ngữ) làm chánh tự:
Riêng với Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ thì ngay từ buổi đầu (1926) Đức Chí Tôn dùng TIẾNG AN NAM làm chánh tự. Tiếng An Nam khi xưa thì thể hiện bằng chữ Nho, chữ Hán, chữ Nôm còn ngày nay thì dùng chữ quốc ngữ để thể hiện. Thánh Ngôn, Pháp Chánh Truyền…do cơ bút viết bằng chữ quốc ngữ và Tân Luật, Đạo Luật…được môn đệ soạn bằng chữ quốc ngữ nên trong trường hợp nầy nếu hiểu chánh tự là chữ quốc ngữ chắc cũng an toàn… 
Dùng chữ quốc ngữ để truyền bá tin mừng, giáo lý tôn giáo, lẽ công bằng, phù hợp với chân, thiện, mỹ chính là tiếp tục ý nguyện ban đầu của các vị lập ra chữ quốc ngữ.
Giáo lý Đại Đạo giúp cho nhân loại, xây dựng một thế giới đại đồng trong Bác Ái và Công Bằng, lấy theo chính lý mà luận thì đó là việc nâng cao giá trị chữ quốc ngữ lên trong thời toàn cầu hóa vậy.
9- Truyền thống trọng ơn.
Ông cha ta có dạy:
Ăn trái nhớ kẻ trồng cây
Uống nước nhớ người đào giếng.
Miếng ăn, miếng uống thường ngày mà Việt tộc còn dùng đó để giáo huấn hậu tấn lòng biết ơn với người trước. Vậy công khó của các vị Giáo Sĩ, các vị cộng tác, công khó của Alexandre de Rhodes trong việc lập ra chữ quốc ngữ để nâng cao dân trí cho nước nhà thì một dân tộc có văn hiến hẳn nhiên phải biết ơn và cư xữ cho đúng mức.
Cái chơn lý của Đức Chí Tôn sẽ lần lược tiêu diệt tất cả tà quyền trên thế gian nầy. Mà chơn lý của Đức Chí Tôn đến với nhân loại phải nhờ vào chánh tự (là chữ quốc ngữ) nên tùng thị pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ: phụng sự cho nhân loại chính là thừa kế và thể hiện lòng biết ơn các vị đã tạo ra chữ quốc ngữ rất sâu xa.
Còn lẽ nhớ ơn thông thường trong xã hội BBT thiết tưởng khi Hội Thánh được phục hồi, 03 Hội lập quyền vạn linh được hội họp thì người đạo nên đưa vấn đề những vị có công trong việc lập ra chữ quốc ngữ ra bàn thảo cho thấu đáo và có những quyết định xứng tầm để thể hiện lòng biết ơn những người có công với chánh tự của nền đạo vậy.
***: VÀI THÔNG TIN CẦN ÍCH VỀ CHỮ QUỐC NGỮ.
1- Chúa Nguyễn Phúc Lan ra lệnh trục xuất giáo sĩ Alexandre de Rhodes và đe dọa sẽ xử tử những ai còn dám đưa giáo sĩ tới. Ngày mồng 3-7-1645 ông từ biệt Đàng Trong để về Macao.
Ông viết trong nhựt ký hành trình: "Xác tôi rời bỏ Đàng Trong và Đàng Ngoài, nhưng thực ra lòng tôi vẫn quyến luyến cả hai nơi, và tôi chắc rằng không bao giờ lòng tôi lại quên được hai Xứ này".
2- Việt Nam Cộng Hòa đặt tên đường Hàn Thuyên đối diện với với đường  Alexandre de Rhodes (qua đường Thống Nhất- nay là đường Lê Duẫn) ở trước cửa Dinh Độc Lập là rất có ý nghĩa vậy. Bởi vì Ông Hàn Thuyên là người rất có công với chữ Nôm, còn Ông Alexandre de Rhodes lại là người rất có công với chữ quốc ngữ.
2.1- Ông Nguyễn Thuyên (sinh 1229 tại xã Lai Hạ, Huyện Lương Tài, Tỉnh Bắc Ninh- Không rõ năm mất). Đỗ Tiến Sĩ năm 1247, làm quan đến chức Thượng Thư Bộ Hình đời vua Trần Nhân Tông. Ông là người rất giỏi chữ Nôm.
Theo Đại Việt Sử Ký toàn thư thì khi quân Nguyên xâm lược nước ta lần thứ 2 (1282) có cá sấu đến sông Lô rất nhiều. Vua truyền ông làm bài văn tế cá sấu ném xuống sông. Cá sấu đi mất, vua xem việc nầy giống như việc ông Hàn Dũ (768-824 “bên Tàu”) làm bài văn đuổi cá sấu. Vua lấy tích nầy ban cho ông họ Hàn. Ông là người có công lớn trong việc phát triễn và phổ biến chữ Nôm trong nước.
2.2- Tháng 10 năm 1619, giáo sĩ trẻ tuổi Đắc Lộ đặt chân lên miền đất thuộc Ấn Độ. Lúc đó ngài thông thạo ba tử ngữ và ba sinh ngữ. Tạm gọi là ba tử ngữ, nhưng thực ra là ba ngôn ngữ cổ: đó là tiếng Do Thái, tiếng Hy Lạp và tiếng La tinh. Trong chương nhất cuốn Văn phạm của ngài, khi bàn về các phép các âm vận, giáo sĩ Đắc Lộ đã so sánh tiếng Việt với tiếng Do Thái hai lần, với tiếng Hy Lạp mười một lần và với tiếng La tinh năm lần. Về sinh ngữ, giáo sĩ thông thạo tiếng Pháp, sau đến tiếng Ý (là tiếng nói trong thủ đô Giáo hội La Mã) và cuối cùng là tiếng Bồ Đào Nha. Bởi vậy cũng trong chương nhất cuốn Văn phạm Việt ngữ, ngài đã nhắc đến những ngôn ngữ đó, nhất là tiếng Bồ và tiếng Ý. Người ta nhận thấy rằng tuy tiếng Pháp có thể gọi là tiếng mẹ đẻ của ngài, song trong công cuộc truyền giáo ngài ít có dịp dùng tới: các văn từ, đơn khế thường được thảo hoặc bằng tiếng La tinh hay tiếng Ý, đa số bằng tiếng Bồ Đào Nha.
…..Giáo sĩ Đắc Lộ tỏ ra không thông thạo chữ Hán, chữ Nhật và chữ nôm điều đó sau này có lẽ chỉ đưa lại ích lợi cho chúng ta.
Mặc dầu giáo sĩ có lẽ không viết được Hán tự, song ngài có thể tạm nói được tiếng Trung Hoa (và có lẽ cả tiếng Nhật). Tắt một lời, trong cuốn Văn phạm chúng tôi kể ở trên, ngài đã có lần so sánh các âm vận Nhật ngữ và Hoa ngữ với Việt ngữ.
Với tiếng Việt, hình như ngài đã sinh ra để học nói và học viết. Quả vậy, khi ngài vừa bước xuống đất liền ở cửa Thuận Hóa, cảm tưởng đầu tiên của ngài đối với tiếng Việt, là một cảm tưởng đẹp đẽ. Ngài viết:
“Vừa tới miền Nam và nghe người bản xứ nói với nhau, nhất là phụ nữ, thì tôi tưởng như được nghe chim líu lo hót, đồng thời tôi tưởng không bao giờ có thể học được thứ tiếng đó”.
Thật vậy, khi đọc kỹ quyển Văn phạm của giáo sĩ Đắc Lộ, người ta thấy tác giả, trong khi nghiên cứu âm vận Việt ngữ, đã không bị ám ảnh bởi một hình ảnh độc tôn nào. Với tinh thần phổ quát, với sự hiểu biết nhiều ngôn ngữ cổ kim, có thể nói ngài là con người quốc tế. Như trên, chúng tôi đã nói ngài biết tiếng Do Thái, tiếng Hy Lạp, tiếng La tinh, ngài còn biết tiếng Pháp, tiếng Ý và tiếng Bồ Đào Nha. Bởi thế, với ý chí đi tìm sự thật và sự ích lợi cho người Việt Nam, ngài đã đem tất cả những kiến thức về các ngôn ngữ ấy để tìm ra cách ghi âm vận cho tường tận, xác đáng, tỉ như:
Q thì đọc như tiếng La tinh trong QUA hay QUI.
X thì đọc như tiếng Bồ, hoặc như Sc của tiếng Ý.
R không đọc cuồn cuộn như tiếng Bồ, song đơn như tiếng Ý.
PH đọc như chữ PHI trong tiếng Hy Lạp.
U đọc như tiếng La tinh.
B đọc như chữ Bêta Hy Lạp, nhất là như chữ Beth Do Thái.
NG đọc như Ngaðn của tiếng Do Thái…
Dấu sắc, huyền, ngã lấy trong dấu sắc, huyền, ngã Hy Lạp, dấu nặng lấy ở chữ iota dưới, còn dấu hỏi thì lấy ở chấm hỏi La tinh. Riêng về Pháp ngữ chúng tôi không thấy tác giả đề cập tới một cách tỏ tường, mà thực ra, âm vận Việt ngữ thích hợp với âm vận La ngữ và mấy tiếng trực thuộc La ngữ như Ý, Bồ hơn là Pháp, trừ trường hợp chúng tôi đã trích ở trên về chữ sang.
Bởi thế, theo thiển ý chúng tôi, thì đây là một trong lý do chính làm cho công cuộc phiên âm của giáo sĩ Đắc Lộ đạt tới kết quả và là kết quả bền bỉ, bất chấp cả thời gian. Tác giả không trói buộc mình vào một hệ thống nào riêng biệt, một ngôn ngữ nào độc tôn, trái lại căn cứ vào cách phát âm đặc biệt của Việt ngữ, ngài đã tìm trong hết các ngôn ngữ mà ngài được biết ngõ hầu ghi cho xác đáng. Nếu tiếng này không phù hợp thì ngài dùng đến tiếng kia, nếu âm vận ngôn ngữ này xem ra phiền toái, thì ngài không ngần ngại cầu cứu đến ngôn ngữ khác, mặc dầu ngôn ngữ ấy không phải ngôn ngữ riêng của ngài, tiếng mẹ đẻ của ngài. Quả thật, con người quốc tế, tinh thần quốc tế đã giúp ngài rất nhiều và vì thế công cuộc đã thành tựu và như trên chúng tôi đã nói, sẽ thành tựu lâu bền.
3- Để kết luận, trước hết chúng tôi phải thú thực rằng việc nghiên cứu về chữ quốc ngữ trong các tác phẩm của giáo sĩ Đắc Lộ mới còn trong thời kỳ phôi thai. Tuy nhiên, chúng ta cũng đã nhận ra mấy điểm chủ chốt sẽ quy hướng mọi công cuộc tìm tòi sau này, và đó cũng là điều cho chúng ta xem thấy rõ những thiếu sót hay sai lầm thường gặp trong mấy sách giáo khoa hoặc khảo cứu vội vàng về chữ quốc ngữ của giáo sĩ Đắc Lộ. Vậy căn cứ vào những tài liệu viết tay cũng như sách in kể ở trên, chúng ta có thể biết về việc thành lập chữ quốc ngữ những chi tiết sau đây:
3.1- Sự thành hình Việt ngữ phiên âm đã nằm trong một tình trạng chung, đó là chí hướng phiên âm các tiếng tượng hình tại Á châu vào thế kỷ XVI-XVII. Thực ra, người ta đã thấy công cuộc ấy được thực hiện trong Nhật ngữ và Hoa ngữ. Riêng về Hoa ngữ phiên âm, trước chúng ta gần nửa thế kỷ, người ta đã sáng chế ra các ký hiệu để ghi các thanh.
3.2- Không kể công cuộc dùng mẫu tự La tinh để phiên âm những tiếng kể trên, trước giáo sĩ Đắc Lộ, tại Việt Nam đã có những ướm thử, những dò dẫm, những việc sơ khởi phiên âm Việt ngữ, như chúng ta đã thấy những tài liệu vào năm 1631, 1645 và như hai tác phẩm của hai giáo sĩ người Bồ nay nguyên bản đã thất lạc, song giáo sĩ Đắc Lộ đã sử dụng để soạn quyển Tự điển Việt-Bồ-La của ngài.
Ông đã đạt tới đích, nhờ vào năng khiếu đặc biệt của ông trong vấn đề hiểu biết các sinh ngữ cũng như tử ngữ, và nhờ vào tinh thần có thể nói là của một công dân quốc tế của ông, nhờ vào trí óc không lệ thuộc vào một hệ thống từ ngữ nào của ông, nghĩa là không bắt Việt ngữ lệ thuộc vào một khuôn khổ ngôn ngữ nào, song khai thác hết khả năng của những từ ngữ khác, nhất là bằng vào trực giác sâu sắc nhất của ông về các âm thanh không những chung cho cả nước, song riêng cho từng miền, từng địa phương.
Ở nước ta, chữ Nôm và chữ viết theo mẫu-tự La-tinh đều là hai lối viết lên dọng nói của tiếng ta, vì thế cùng là viết quốc-ngữ cả. Nhưng chỉ vì một biến cố lịch-sử không có ở Tàu ở Nhật, mà tình-trạng thay đổi như ta thấy ngày nay. Số là sau khi chính phủ bảo-hộ và thuộc-địa bãi bỏ chữ Hán và lấy tiếng Pháp thay vào đó làm ngôn-ngữ hành-chính và văn-hóa, lấy ngôn-ngữ của người bảo-hộ mới để thay cho chữ viết của người đô-hộ cũ, thì chữ Hán không còn phải là con đường tiến-thân ở Việt-Nam nữa. Chữ Nôm vì quá tùy-thuộc vào chữ Hán, lại trước đó cũng chẳng được trọng-dụng như chữ Hán, cho nên cũng theo đó mà lu mờ đi, cho nên chỉ còn có lối viết theo mẫu-tự La-tinh là được gọi là quốc-ngữ mà thôi. Đã thế vào đầu thế-kỷ XX lại có một số sĩ-phu có tên tuổi đứng ra cổ-võ cho chữ quốc-ngữ ấy, vì thấy nó tiện lợi và dễ học hơn chữ Nôm. Và họ đã thành công. Ngày nay là gần một thế kỷ sau đó, chúng ta đã quá quen dùng chữ quốc-ngữ rồi, văn-chương của tiền-nhân hầu hết cũng đã chuyển sang chữ quốc-ngữ, rồi các sáng tác văn-học, khoa-học, thư-tín và giấy tờ hành-chính đều viết bằng chữ quốc-ngữ cả. Cho nên có lẽ không còn ai chủ-trương phải trở về chữ Nôm nữa: nó thật là thần-tình, nhưng vẫn còn nhiều khuyết-điểm và chưa được ấn-định cho chính-xác.
4- Nguyễn Trường Tộ và chữ quốc ngữ.
Ông Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) là một người yêu nước, một nhà thông thái và cải cách, dâng nhiều bản điều trần để canh tân đất nước. Thế kỷ 19 thì chữ quốc ngữ đã lớn mạnh và bản thân ông là tín đồ Thiên Chúa Giáo nhưng ông cũng không cái duyên với chữ quốc ngữ.
Đề-nghị của ông về chữ viết của nước ta được trình bày rõ ràng trong điều thứ 4, khoản thứ 5 của Tế cấp bát điều (Tám việc cần làm gấp), về việc dùng quốc-âm.
Sử gia Trương Bá Cần đã nêu lên: Nguyễn Trường Tộ là người công giáo. Ông thừa biết rằng chữ quốc ngữ, theo mẫu tự La tinh, được sử dụng phổ biến trong giới công giáo từ thế kỷ 17-18, là một mẫu tự đơn giản và dễ học hơn “chữ Hán quốc âm” nhiều.
Nhưng ông không đề nghị lấy chữ Quốc ngữ làm chữ viết cho cả nước. Ông giải thích điều đó: “Chả lẽ nước ta không có ai giỏi có thể lập ra một thứ chữ để viết tiếng ta hay sao? Vì ta dùng chữ Nho đã lâu nên không cần thay đổi tất cả, sợ làm cho người ta lạ tai lạ mắt”.
Ông cũng không nói gì đến chữ Nôm là chữ Quốc âm được thành hình từ thời Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương) thế kỷ thứ 8, và phát triển với Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Chu Văn An, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu.. . Chữ Nôm cũng được sử dụng rộng rãi trong giới công giáo từ thế kỷ 17-18.. .Chữ Nôm đúng ra cũng còn phức tạp.
Sau khi nêu ra cái tai hại của lối học khoa cử và lối văn chương chơi chữ, ông đề nghị dùng “chữ Hán quốc âm”, đại khái như sau: “Tôi tính quốc âm ta ước chừng hơn một vạn tiếng, trong đó chỉ có lối ba ngàn tiếng không thể viết như chữ Hán. Trường hợp đó ta dùng những chữ Hán tương tự rồi thêm hiệp vần vào một bên mà thôi. Đó gọi là “chữ Hán quốc âm” (...) Như vậy người học sau này chỉ học mặt chữ thôi, không phải tốn nhiều công phu học cái tiếng chẳng phải Hán chẳng phải ta.
Về cái tiện lợi của chữ Hán quốc âm, ông giải thích: “Nay ta không có chữ viết riêng mà chỉ dùng chữ nho để viết thay. Về phát âm đã không theo đúng giọng Trung Quốc cũng không phải tiếng phổ thông của nước ta. Người mới học phải thuộc mặt chữ bằng mắt lại phải vận dụng trí nhớ để nhớ những phát âm lạ tai. Âm vận của thứ chữ này chỉ có ai học mới biết, không học thì nghe cũng như vịt nghe sấm mà thôi. Thế có phải phí hơn một nửa công phu trí óc không? Nay nếu học sách quốc âm, học sinh ở nhà đọc đàn bà con nít nghe cũng hiểu, như vậy tuy không đi học mà cũng học được. Hơn nữa nếu dùng quốc âm thì lúc nhỏ đã có cha mẹ dạy, lớn lên đi học chỉ học nét viết mà thôi. Thế có phải giảm bớt được một nửa công phu không ?’’.
Đề nghị cụ thể của ông như sau: “Vậy xin dùng chữ Hán làm mẫu, lựa âm của chữ nào hợp với âm tiếng ta, nhất định không thay đổi thì đọc như tiếng ta không cần giải nghĩa. Chữ nào có âm gần giống tiếng ta thì thêm nét phụ vào rồi đọc ra tiếng ta. Ngoài ra gộp hết tiếng ta lại chia thành môn loại, làm tự điển, trước tiên ban hành trong các cơ quan chính quyền và trường học cho người học dễ dàng sử dụng (...) Còn các nhà văn ai muốn dùng chữ Hán theo âm nho tùy ý nhưng trong công việc làm thì phải dùng thứ chữ Triều đình đã ban hành. (...) Bây giờ ta cứ lấy chữ Hán chuyển đọc ra quốc âm, không cần học nghĩa, thế cũng vẫn dùng chữ Hán có gì mà không được? Thí dụ như chữ “Thực phạn’’ thì đọc là “ăn cơm’’, hoặc viết chữ “ăn cơm’’ thay chữ “Thực phạn”.
Thiết tưởng không cần dài dòng về vấn đề đó, vì tuy đề nghị có lý sự rõ ràng, nhưng những người được đọc lại không muốn theo, dù có người muốn theo, nhưng cũng chưa ai làm cả. Rất có thể là đề nghị đó cũng chỉ là “mách qué” đối với những người trọng Nho như vua tôi nhà Nguyễn. Thiết tưởng cũng nên nhắc lại rằng cách-thức đó đã sinh ra “chữ Hán quốc âm” của người Nhật-bản: thí dụ họ viết chữ “nhân” (người) rồi đọc ra tiếng Nhật là “hito” hay đọc theo âm Hán là “jin”, viết chữ “mộc” (cây) rồi đọc ra tiếng Nhật là “ki’’ hay đọc theo âm Hán là “moku’’.
4- Chữ quốc-ngữ và chữ Nôm
Chữ Nôm và chữ quốc-ngữ là hai lối viết tiếng Việt, một lối theo mẫu người Tàu, một lối theo mẫu người Tây. Thực ra cũng không phải người Tây sáng chế ra lối viết theo mẫu-tự như thế, nhưng họ cũng là học lại của người miền Trung-Đông thời Thượng-cổ. Và hiện nay cũng có nhiều dân-tộc trên thế-giới dùng lối viết theo mẫu-tự.
Chữ Nôm đã “vang bóng một thời’’, nó kết tinh nỗ-lực của ông cha ta trong mươi thế-kỷ để thiết-lập một nền văn-hóa Việt-Nam có bản-sắc riêng, tuy có chịu ảnh-hưởng của văn-hóa người Hán tộc, lại muốn có vốn để “đi ăn riêng’’, nhưng còn gặp nhiều khó khăn. Chữ quốc-ngữ là do ảnh-hưởng của người Âu-châu, nhưng đã giúp cho người mình thực-hiện được cái ý muốn độc lập đó.
Ngày nay ta không dùng chữ Nôm trong đời sống thường nhật, và cũng không thấy có dấu nào nói lên rằng dân ta muốn trở lại dùng chữ Nôm, vì thực ra cũng có nhiều cái bất tiện, lại tốn công, tốn của, tốn thì giờ. Tuy vậy đó vẫn là kho tàng văn-hóa không thể bỏ qua, mà trái lại cần được bảo-tồn. Đó là chương-trình của Viện Nghiên Cứu Hán-Nôm và của cơ-quan “Vietnamese Nôm Preservation Foundation’’. Trong việc sưu tầm sách vở chữ Nôm thời xưa, xem chừng còn ít người biết và để ý đến số sách Nôm do người công-giáo đã biên soạn trong hơn ba thế-kỷ. Điểm quan-trọng của số sách này là ở chỗ nó cho ta biết khi bắt đầu tiếp-xúc với tư-tưởng người Âu, thì các ý-niệm và quan-niệm của Tây phương được chuyển sang tiếng Việt như thế nào.
Như đã nói trên đây, tự-vị Taberd, cũng như tự-vị của Pigneaux de Béhaine, có cái sáng-kiến hay của nó, là vừa có đối chiếu chữ quốc ngữ với chữ Nôm, vừa có cách thức thuận tiện để chuyển từ loại chữ này sang loại chữ kia. Vì xếp theo thứ-tự các mẫu-tự Latinh, nên ta biết đọc thế này thì phải viết làm sao. Ngược lại, muốn biết chữ viết thế này phải đọc làm sao, thì đã có bảng xếp các chữ theo các bộ chữ Hán. Cho nên từ sau đó các tự-vị chữ Nôm đều tiếp nhận cái sáng-kiến ấy.
Tự-vị Taberd đã góp phần vào việc định hình cho chữ quốc-ngữ ta dùng bây giờ, và còn giúp ta trong việc nghiên-cứu chữ Nôm. Cho nên nó đáng được một chỗ đứng trong lịch-sử phát-triển văn-hóa Việt-Nam.
nhưng Đắc Lộ đã cho biết: "Tôi vận dụng công việc của các giáo sĩ khác cũng thuộc Dòng Tên, nhất là của Gasparo d'Amiral và Antonio Barbosa. Cả hai ông nầy, mỗi ông đều làm một cuốn tự điển. Ông Gasparo d'Amiral làm cuốn Annamiticum - Lusitanium; ông Antonia Barbosa làm cuốn Lusitanum - Annamiticum. Nhưng tiếc rằng cả hai ông đều chết sớm. Tôi vận dụng công việc của cả hai ông viết ra cuốn tự điển mới, có chua thêm tiếng La tinh, mục đích để giúp người bản xứ học tiếng La tinh theo lệnh của các đức hồng y.".
5- Sau khi chiếm được Việt Nam thì thực dân Pháp chia nước ta làm ba kỳ: Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
Nghị định ra ngày 6-4-1878 “về việc dùng tiếng An Nam bằng mẫu tự Latin” do thống đốc Nam Kỳ Lafont ký và ban hành. Đến ngày 01-01-1882 chính quyền Pháp buộc Nam Kỳ (lúc đó là xứ thuộc địa của Pháp) phải dùng chữ quốc ngữ trong hành chánh. Việc bắt buộc nầy có liên quan đến nhiều vấn đề, một trong những vần đề đó là làm cho chữ quốc ngữ phát triễn hoàn chỉnh nhanh chóng và mạnh mẽ hơn.
@@@
Lời cuối: BBT tham khảo từ nhiều nguồn nhưng đặc biệt là từ trang web vietcatholic (số bài của ông Nguyễn Khắc Xuyên và một số tác giả khác về chữ quốc ngữ) để đúc kết thành bài trên. Có phần thì rút gọn, có phần thì giữ nguyên văn, có chổ ghi lại suy luận của BBT cho phù hợp với trọng tâm bài viết…Nếu bạn đọc thấy có điều chi chưa tin tưởng cần kiểm tra lại hay bổ cứu thêm xin vui lòng vào trang web trên để xem xét.
Nay kính.

















TIỂU SỬ VÀ CÔNG NGHIỆP
Giáo sĩ: Alexandre de Rhodes

Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.

(Bài từ BNS Thông Liên số 57).
Alexandre de Rhodes (phiên âm tiếng Việt là A-Lịch-Sơn Đắc-Lộ hay Cha Đắc Lộ, A-lếc-xăng Đơ-rốt; 15-3-1591 / 05 -11-1660) là một nhà truyền giáo dòng Tên người Avignon và một nhà ngôn ngữ học. Ông đã góp phần quan trọng vào việc hình thành chữ quốc ngữ Việt Nam hiện đại bằng công trình Tự điển Việt-Bồ-La, hệ thống hóa cách ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh.
 
Chân dung Alexandre de Rhodes.
Quốc tịch: Pháp (thọ 69 tuổi).
 Sinh: 1951 tại Avigon. (Pháp).
Mất: 1660 tại Isfahan (Ba Tư).

Thời niên thiếu

Ông sinh tại Avignon, miền nam nước Pháp. Theo một số sử liệu, linh mục Alexandre de Rhodes (cha Đắc Lộ), sinh năm 1591, nhưng nhiều nguồn khác ghi ông sinh năm 1593. Ông gia nhập dòng Tên tại Roma ngày 24-4-1612, thời kỳ công cuộc truyền giáo cho các dân tộc đang trên đà phát triển. Tuy nhiên, cùng với đà tiến này, Giáo hội Công giáo cũng gặp sức kháng cự vũ bão của chính quyền các dân tộc được rao giảng Tin Mừng. Vì thế, bên cạnh nhiệt tâm truyền giáo, còn phải kể ước muốn được đổ máu đào minh chứng cho Chúa Jesus của các vị thừa sai tiên khởi. Gia đình ông thuộc gốc Do Thái ở thành phố Rhodes (bán đảo Iberia) ), tổ tiên sang tị nạn dưới bóng Giáo Hoàng vì thời ấy Avignon là đất của Giáo Hoàng, nên tên ông là Alexandre de Rhodes (A Lịch Sơn Đắc Lộ). Người Việt gọi Alexandre de Rhodes là Giáo sĩ Đắc Lộ.

Truyền giáo

Trong bối cảnh đó, Alexandre de Rhodes đã xin và được Bề Trên chỉ định đi truyền giáo tại Nhật Bản. Ngày 4- 4- 1619, ông lên đường vào tuổi 26, cùng với kiến thức sâu rộng về thiên văn họctoán học. Alexandre là một người cường tráng, vui vẻ và lạc quan, luôn nhìn khía cạnh tích cực của vấn đề. Ông thích nghi nhanh chóng với mọi môi trường sống và cư xử giản dị trong giao tế với người khác.
Đầu tiên, Alexandre de Rhodes cập bến tại Goa, đợi chờ cơ hội thuận tiện đặt chân lên đất Nhật Bản. Nhưng tình hình bách hại Kitô Giáo dữ dội tại đây đã khiến các Bề Trên buộc lòng chỉ định ông đi Trung Quốc. Ông lên tàu đi Ma Cao, ở đó ông đã ghi lại những nhận xét về người Trung Hoa:
"Người Trung Hoa rất ngạc nhiên khi nhìn thấy bản đồ chúng tôi vẽ. Trung Quốc vĩ đại của họ chỉ còn là chấm nhỏ trong vũ trụ Trái Đất bao la. Trái lại, nơi bản đồ trái đất hình vuông do họ vẽ, Trung Quốc nằm chính giữa, đúng như tên gọi (Trung Quốc-nước ở giữa). Sau đó, họ vẽ biển nằm bên dưới Trung Quốc, trong đó rải rác mấy đảo nhỏ, và họ đề tên: Châu Âu, Châu PhiNhật Bản..."
Ông còn viết:
"Chúng ta thường tỏ ra quý chuộng những người ngoại giáo. Nhưng khi họ trở thành Kitô hữu, chúng ta không đoái hoài đến họ nữa. Thậm chí còn bắt các người theo đạo phải từ bỏ y phục địa phương. Chúng ta đâu biết rằng, đây là một đòi buộc quá khắt khe, mà ngay cả Thiên Chúa, Ngài cũng không đòi hỏi như thế. Chúng ta ngăn cản người ngoại giáo, không cho họ cơ hội dễ dàng gia nhập Giáo hội Công giáo.
Riêng tôi, tôi cực lực phản đối những ai muốn bắt buộc người đàn ông Trung Hoa, khi theo đạo, phải cắt bỏ mái tóc dài họ vẫn để, y như các phụ nữ trong xứ. Làm vậy, chúng ta gây thêm khó khăn cho các nam tín hữu Trung Hoa, một khi theo Công giáo, không còn tự do đi lại trong xứ, hoặc tìm được dễ dàng công ăn việc làm. Phần tôi, tôi xin giải thích rằng, điều kiện để trở thành Kitô hữu là phải từ bỏ lầm lạc, chứ không phải cắt bỏ tóc dài..."

Tại Việt Nam

Đầu năm 1625, Alexandre cùng với bốn cha dòng Tên khác và một tín hữu Nhật Bản, cập bến Hội An, gần Đà Nẵng. Ông bắt đầu học tiếng Việt và chọn tên Việt là Đắc-Lộ. Thầy dạy tiếng Việt cho ông là một cậu bé khoảng 10, 12 tuổi. Ông viết:
Chỉ trong vòng 3 tuần lễ, chú bé đã dạy tôi học biết tất cả các cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách thức phát âm của từng chữ. Cậu không hề có một kiến thức gì về ngôn ngữ Châu Âu, thế mà, cũng trong vòng 3 tuần lễ này, cậu đã có thể hiểu được tất cả những gì tôi muốn diễn tả và muốn nói với cậu. Đồng thời, cậu học đọc, học viết tiếng Latin và đã có thể giúp lễ. Tôi hết sức ngạc nhiên trước trí khôn minh mẫn và trí nhớ dẻo dai của cậu bé. Sau đó, cậu trở thành thày giảng giúp việc các cha truyền giáo và là một dụng cụ tông đồ hữu hiệu trong việc loan báo Tin Mừng nơi quê hương Việt Nam thân yêu của thầy và nơi Vương quốc Lào láng giềng.
Từ đó, Việt Nam trở thành quê hương thứ hai của Alexandre de Rhodes, nhưng cuộc đời truyền giáo của ông ở đây rất bấp bênh và trôi nổi. Trong vòng 20 năm, ông bị trục xuất đến sáu lần. Nhưng sau cả sáu lần ấy, ông đều tìm cách trở lại Việt Nam khi cơ hội cho phép.
Ông đến truyền giáo ở Đàng Trong vào năm 1625 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên và ở Đàng Ngoài vào năm 1626 dưới thời chúa Trịnh Tráng. Thời gian Alexandre de Rhodes giảng đạo tại Việt Nam cũng là thời kỳ các cha thừa sai dòng Tên hoạt động rất hăng say và hữu hiệu. Riêng Alexandre de Rhodes, ông đã truyền đạo từ Nam ra Bắc.
Ông kể lại công cuộc truyền giáo tại Bắc Phần:
Khi chúng tôi vừa đến kinh đô Bắc Kỳ, tức khắc nhà vua truyền lệnh cho tôi phải xây một nhà ở và một nhà thờ thật đẹp. Dân chúng tuốn đến nghe tôi giảng đạo đông đến nỗi, tôi phải giảng đến 4 hoặc 6 lần trong một ngày. Chị vua và 17 người thân trong gia đình vua xin lãnh nhận bí tích Rửa Tội. Nhiều tướng lãnhbinh sĩ cũng xin theo đạo. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên nhất là thấy các vị đã mau mắn từ bỏ bụt thần để theo đạo Công giáo. Tất cả đều dễ dàng chấp nhận khi tôi giải thích cho họ hiểu giáo lý đạo Công giáo rất phù hợp với lý trílương tâm con người. Các tín hữu Công giáo Việt Nam có Đức Tin vững chắc đến độ, không gì có thể rút Đức Tin ra khỏi lòng họ. Nhiều người phải đi bộ suốt 15 ngày đường để được xưng tội hoặc tham dự thánh lễ. Nhưng phải thành thật mà nói, tôi không thể chu toàn cách tốt đẹp mọi công tác truyền đạo này, nếu không có trợ giúp tuyệt vời của các thầy giảng. Vì nhận thấy mình là linh mục duy nhất giữa một cánh đồng truyền đạo bao la, nên tôi chọn trong số các tín hữu, những thanh niên không lập gia đình và có lòng đạo đức sâu xa cũng như có nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng, để giúp tôi. Những người này công khai thề hứa sẽ dâng hiến cuộc đời để phụng sự Chúa, phục vụ Giáo hội, sẽ không lập gia đình và sẽ vâng lời các cha thừa sai đến Việt Nam truyền đạo. Hiện tại có tất cả 100 thầy giảng đang được thụ huấn trong chủng viện và được các tín hữu trang trải mọi phí tổn.
Năm 1645, ông bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. Khi trở lại châu Âu, Alexandre de Rhodes vận dụng mọi khả năng hiểu biết về công cuộc rao giảng Tin Mừng tại Á Châu, đã xin Tòa Thánh gửi các giám mục truyền giáo đến Á Châu, để các ngài có thể truyền chức linh mục cho các thầy giảng bản xứ.
Ông mất ngày 5-11-1660Isfahan, Ba Tư, 15 năm sau lần cuối cùng bị trục xuất khỏi Việt Nam.
Chính sử của triều đình Việt Nam (Khâm Định Việt Sử) ghi từ năm 1533 vua Lê Trang Tông đã có chiếu chỉ cấm đạo Công Giáo.

Đóng góp vào chữ Quốc ngữ.

Vào năm 1651, ông cho in cuốn Từ Điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) dựa trên các ký tự tiếng Việt của những giáo sĩ người Bồ Đào NhaÝ trước đó. Có thể coi đây là sự kiện đánh dấu sự ra đời của chữ Quốc ngữ. Ngoài ra một tác phẩm khác cùng tầm quan trọng do giáo sĩ Đắc Lộ soạn là cuốn Phép giảng tám ngày (tựa Latinh: Catechismus). Khác với phần tự điển ghi từ vựng, Phép giảng tám ngày là tác phẩm văn xuôi, phản ảnh văn ngữ và ghi lại cách phát âm của tiếng Việt vào thế kỷ 17.
Năm 1961, nhân dịp kỷ niệm 300 năm ngày qua đời của Alexandre de Rhodes, nguyệt san MISSI, do các cha Dòng Tên người Pháp điều khiển, đã dành trọn số tháng 5 để tưởng niệm và ca tụng Cha Đắc Lộ, một nhà truyền giáo vĩ đại của Giáo hội Công giáo Hoàn vũ nói chung và của Giáo hội Công giáo Việt Nam nói riêng. Nguyệt san MISSI nói về công trình khai sinh chữ Quốc ngữ với tựa đề: "Khi tạo cho Việt Nam các mẫu tự La Tinh, Alexandre de Rhodes đã đưa Việt Nam đi trước đến 3 thế kỷ".
 
Trang đầu sách Phép giảng tám ngày song ngữ bằng tiếng Latinh (bên trái) và tiếng Việt với chữ Quốc ngữ (bên phải)
Tiếp đến, tờ MISSI viết:
Khi chính thức xác định mẫu tự, bằng cách cho ra đời tại Roma nơi nhà in Vatican, quyển tự điển đầu tiên và các sách đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ, cha Đắc Lộ đã giải phóng nước Việt Nam.
Thật vậy, giống như Nhật Bản và Triều Tiên, người Việt Nam luôn luôn sử dụng chữ viết của người Tàu và bị nô lệ vì chữ viết này. Chỉ mới cách đây không lâu, người Triều Tiên mới chế biến ra một chữ viết riêng của họ. Còn người Nhật thì, sau nhiều lần thử nghiệm, đã phải bó tay và đành trở về với lối viết tượng hình biểu ý của người Tàu.
Trong khi đó, người Tàu của Mao Trạch Đông đang tìm cách dùng các mẫu tự La Tinh để chế biến ra chữ viết của mình, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công. Vậy mà dân tộc Việt Nam, nhờ công ơn của cha Đắc Lộ, đã tiến bộ trước người Tàu đến 3 thế kỷ.
Dĩ nhiên, không phải chỉ riêng mình cha Đắc Lộ khởi xướng ra chữ Quốc ngữ. Trước đó, các cha thừa sai dòng Tên người Bồ Đào Nha ở Ma Cao đã nghĩ ra một số phát âm tiếng Việt, viết bằng các mẫu tự La Tinh rồi. Tuy nhiên, cha Đắc Lộ là người đưa công trình chế biến chữ Quốc ngữ đến chỗ kết thúc vĩnh viễn và thành công, ngay từ năm 1651, là năm mà cuốn tự điển Việt-Bồ-La chào đời. Đây cũng là năm sinh chính thức của chữ Quốc ngữ. Và cuộc khai sinh diễn ra tại Roma, nơi nhà in Vatican. Chính nơi nhà in Vatican mà Việt Nam nhận được chữ viết của mình.
Đã từ lâu đời, người Việt Nam viết bằng chữ Tàu, hoặc bằng chữ Nôm, do họ sáng chế ra. Nhưng đa số người Việt Nam không thể đọc và viết được chữ Tàu, vì theo lời cha Đắc Lộ, Tàu có đến 80 ngàn chữ viết khác nhau. Các nhà truyền giáo đầu tiên khi đến Việt Nam, đã bắt đầu dùng mẫu tự La Tinh để viết lại âm giọng mà họ nghe được từ tiếng Việt. Khi cha Đắc Lộ đến Việt Nam, đã có một số phát âm tiếng Việt được viết bằng chữ La Tinh rồi. Vì thế, có thể nói rằng, công trình sáng tạo ra chữ Quốc ngữ trước tiên là một công trình chung của các nhà thừa sai tại Việt Nam. Nhưng khi chính thức in ra công trình khảo cứu chữ viết tiếng Việt của mình, là cùng lúc, Alexandre de Rhodes đã khai sinh ra chữ viết này, ban đầu được các nhà truyền giáo sử dụng, sau đó, được toàn thể dân Việt Nam dùng và biến nó thành chữ quốc ngữ. Tất cả các nước thuộc miền Viễn Đông từ đó ước ao được có chữ viết cho quốc gia mình y như chữ Quốc ngữ này vậy.
Bản thân Alexandre de Rhodes đã viết như sau:
Khi tôi vừa đến Nam Kỳ và nghe người dân bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang nghe chim hót líu lo, và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ rằng, có lẽ không bao giờ mình học nói được một ngôn ngữ như thế. Thêm vào đó, tôi thấy hai cha Emmanuel FernandezBuzomi, khi giảng, phải có người thông dịch lại. Chỉ có cha Francois Pina là hiểu và nói được tiếng Việt, nên các bài giảng của cha Pina thường đem lại nhiều lợi ích hơn là của hai cha Fernandez và Buzomi. Do đó tôi tự ép buộc mình phải dồn mọi khả năng để học cho được tiếng Việt. Mỗi ngày tôi chăm chỉ học tiếng Việt y như ngày xưa tôi học môn thần học ở Roma. Và nhờ ơn Chúa giúp, chỉ trong vòng 4 tháng, tôi học biết đủ tiếng Việt để có thể giải tội và sau 6 tháng, tôi có thể giảng được bằng tiếng Việt. Kết quả các bài giảng bằng tiếng Việt lợi ích nhiều hơn các bài giảng phải có người thông dịch lại.
Nguyệt san MISSI đã ca ngợi vai trò của Alexandre de Rhodes hơi quá, vì chính họ cũng viết rõ là trước de Rhodes đã có một số nhà truyền giáo ghi lại tiếng Việt bằng chữ cái La tinh, nhưng tiếp theo đó lại tôn vinh de Rhodes là người khai sinh ra chữ Quốc ngữ. Tuy nhiên, de Rhodes rõ ràng đã có công lớn trong việc hệ thống hóa việc ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái La tinh một cách đầy đủ. Nhờ cuốn từ điển Việt-Bồ-La của ông, chữ Quốc ngữ mới bắt đầu phổ biến trong cộng đồng Ki-tô giáo Việt Nam, đặt nền móng cho việc sử dụng rộng rãi sau này.

Tác phẩm

Ngoài cuốn Tự Điển Việt-Bồ-La Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum đã được Kho Tàng trữ của Thư viện Quốc gia Bồ Đào Nha scan và đưa lên mạng Internet (xem tại đây), còn có nguyên bộ các tác phẩm khác trong ấn bản đầu tiên ở thập niên 1650 mà Giáo sĩ Đắc-Lộ viết bằng tiếng Latintiếng Pháp có thể tìm thấy tại Thư viện Maurits Sabbe của Đại học Công giáo tại Louvain (Université catholique de Louvain) tại Bỉ. Ngoài ra, có thêm một số ấn bản hoặc tái ấn bản cũng được tìm ra trong cơ sở dữ liệu PORBASE của Liên hiệp các thư viện ở Bồ Đào Nha.

Tưởng niệm.

- Thời Pháp thuộc:

Năm 1941 Hội Trí Tri cùng với Hội Truyền bá Quốc ngữ đã quyên góp để dựng một tấm bia kỷ niệm ngày sinh nhật thứ 350 của giáo sĩ Đắc Lộ. Bia đặc ở đường Francis Garnier, nay là phố Đinh Tiên Hoàng, cạnh hồ Hoàn Kiếm, (trước cửa đền bà Kiệu).
Chủ tọa lễ dựng bia là toàn quyền Decoux. Ban tổ chức gồm các ông Pierre de Feyssal, Ngô Tử Hạ, Nguyễn Văn Tố, Paul Bouchet.
Hai năm sau, năm 1943 chính quyền thuộc địa Đông Dương phát hành con tem 30 xu để tôn vinh những đóng góp của ông trong quá trình phát triển tiếng Việt.

- Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa:

Tem tưởng niệm Alexandre de Rhodes của Việt Nam Cộng Hòa
Chính quyền Việt Nam Cộng hòa cũng phát hành một bộ 4 con tem kỷ niệm 300 năm ngày mất của ông, nhưng ra trễ 1 năm (phát hành ngày 5-11-1961).
Tên ông được đặt cho một trường trung học và một con đường ở Sài Gòn gần Dinh Độc Lập.
- Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa:
Theo thông tin từ ông Đỗ Quang Chính (trang web vietcatholic) BBT xin đăng lại như sau:
- Ông Chính được biết  bia kỷ niệm đã bị hạ vào năm 1957.
- Năm 1983 khi ông về Hà Nội quả thực không còn bia, nhưng còn mái che bia.  Tới năm 1986 thì không còn mái nữa và ở đây đã có một đài quyết tử quân.
- Sau ngày 30-4-1975.
Theo BBT biết thì con đường Alexandre de Rhodes ở Sài Gòn còn nguyên tên nhưng trường học mang tên ông (gần ngã tư Bảy Hiền) đã bị thay tên. (Bản đồ thành phố Hồ Chí Minh cũng còn con đường mang tên ông. Tin nói đường mang tên ông bị xóa là không chính xác)
Năm 1983 nhà xuất bản Khoa học Xã hội ở Hà Nội ấn hành Từ Điển Văn học, 2 tập. Nhưng ba cuốn: Khái Luận Việt Ngữ, Phép Giảng Tám Ngày và Từ Điển Việt Bồ La (1651) của ông vẫn bị loại ra.
@@@











VĂN TẾ CÁ SẤU.

Ngặc ngư kia hỡi mày có hay
Biển Đông rộng rãi là nơi
mày
Phú Lương đây thuộc về thánh vực
Lạc lối đâu mà lại đến đây

Há chẳng nhớ rằng nước Việt xưa
Dân quen chài lưới chẳng tay vừa
Đời Hùng vẽ mình vua từng dạy
Xuống nước giao long cũng phải chừa

Thánh thần nối dõi bản triều nay
Dấy từ Hải Ấp ngôi trời thay
Võ công lừng lẫy bốn phương tịnh
Biển lặng sông trong mới có rày

Hùm thiêng xa dấu dân cày cấy
Nhân vật đều yên đâu ở đấy
Ta vâng đế mạng bảo cho mày
Hãy vào biển Đông mà vùng vẫy.
Nguyễn Thuyên (Hàn Thuyên).
(HẾT TRÍCH.)
MỤC LỤC.
01. Thiên Chúa Giáo & Cao Đài Giáo. Trang 01.
02. Tôn giáo đối với nền văn minh thời đại. Tr. 07.
03. Ngụ Đời bài số 1. Tr. 09.
04. Tìm hiểu nguồn gốc chánh tự ĐĐTKPĐ. Tr. 10.
05. Tiểu sử và công nghiệp Giáo sĩ Alexandre de Rhodes.
06. Văn tế cá sấu. Tr. 27.
07.  Mục lục.
Hết.