Ðời mến đức, Ðạo thương tài,
Ðức tài hiệp một, nhiều ngày lập công.
Hội Thánh mong ước các em đi hành đạo được nhiều kết quả tốt.
LỜI KHUYÊN NHỦ CHƯ
VỊ LỄ SANH TÂN ÐẦU TỘC ÐẠO.
Kính chư Hiền hữu
Lễ Sanh thân mến,
Từ trước các em hành đạo tại Tòa Thánh với
Thiên chức Lễ Sanh. Hôm nay, các em đắc lịnh đi hành đạo tha phương, lãnh thêm
trách nhiệm mới là Ðầu Tộc Ðạo, do Huấn lịnh của Hội Thánh CTÐ định phận. Hội
Thánh thọ mạng lịnh Ðức Chí Tôn và Ðức Lý Giáo Tông có trách nhậm nhắc nhở các
em vững bước trên đường lập vị, tức là làm trọn lời hứa của các em với Hội
Thánh trong buổi đầu tiên.
Anh xin nhắc lại,
hồi các em còn ở địa vị Chức việc, các em lập hồ sơ cầu phong Lễ Sanh, có ký
tên “Hiến thân trọn đời hành đạo” thì trong thâm tâm các em lúc ấy mỗi người đều
muốn làm sao cho công quả đủ đầy, để khi xác thân lìa bỏ cõi trần, linh hồn được
đắc thăng phẩm vị. Chắc mỗi em đều ước mong như thế. Biết bao khổ hạnh vì đạo,
cực trí lao tâm, các em vẫn miệt mài với phận sự. Nhưng Hội Thánh nhận thấy mấy
em đã gặp đạo rồi, cần phải tạo đức. Muốn tạo đức, phải lập công quả, vì đức phải
do công tạo dựng. Ngày nào các em đạo đức đủ đầy mới mong được ngôi Thiên định
vị.
Hội Thánh vì
thương nên hôm nay phú thác thêm trách nhậm cho các em và ủy nhiệm anh căn dặn
thêm về bước đường hành đạo. Anh thấy bổn phận các em đến địa phương cần thi
hành những việc:
1-
Phụng
sự nhơn sanh.
2-
Gây
tình thiện cảm.
3-
Thương
yêu hòa ái.
Cái
khó buổi đầu tiên là các em cất bước ra đi đến nơi xứ lạ quê người, chỉ có hai
bàn tay không với một Tờ Huấn lịnh. Nhưng các em chớ thấy như thế mà vội ngã
lòng. Các em nên đặt hết đức tin rằng ngoài Tờ Huấn lịnh của Hội Thánh thuyên bổ,
Ðức Chí Tôn, Ðức Phật Mẫu, các Ðấng Thiêng Liêng còn ban cho mỗi em một vật báu
vô hình để khi đến địa phương, các em sử dụng hành đạo. Vật báu ấy là tấm gương
đạo đức tại trong tâm các em đã có sẵn, chờ khi các em đi hành đạo, các Ðấng sẽ
khai mở Huệ tâm Kiến tánh cho các em thành công đắc quả đó.
Anh
xin nhắc lại lời Thánh giáo của Bát Nương Diêu Trì Cung:
“Lời
đã dặn có Trời nối gót,
Lập
ngôi Thiên rưới giọt từ bi.”
thì
thấy rõ rằng, người hành đạo cần phải có đức, mà cái đức ấy phải tự tay mỗi em
tạo nó mới có, nếu không tạo làm gì có được. Muốn tạo đức, phải làm sao? là phải
tùng lịnh Hội Thánh đi hành đạo địa phương, đem tấm thân Chức sắc đến gần với
nhơn sanh để dung hòa và thân cận dìu dắt, chỉ dẫn người tín đồ hành đạo cho
đúng y qui củ chuẩn thằng của Hội Thánh định, tôn thờ và giữ trọn Tân Pháp Ðạo.
Nếu thiếu người của Hội Thánh nhắc nhở, e ngại cho nhơn sanh lạc bước lỗi lầm,
như thế mới có vấn đề thuyên bổ Ðầu Tộc Ðạo.
Các
em nay lãnh lịnh ra đi là bồi công tại cõi hữu hình; còn lập đức nơi thiêng
liêng vị, các em hành đạo tại Tòa Thánh là có sẵn đạo rồi, nay đi lấy công lập
đức nơi địa phương, chừng đến buổi mai hậu, đạo đức đủ đầy, lo chi phẩm vị
thiêng liêng mấy em không kết quả. Ngày gần đây, các em cất bước lên đường, anh
có đôi lời khuyên nhủ các em, từ khi thọ lịnh đến lúc ra đi, nên nhớ thi hành
các khoản sau đây:
Tại
Tòa Thánh: Khi tiếp nhận được Huấn lịnh, nhận lãnh tờ Thông Hành Ðạo với hành
lý xong, quí vị Tân Ðầu Tộc Ðạo nên ghi nhớ những việc hành đạo trước buổi ra
đi:
1.
Mặc Thiên phục vào Tòa Thánh kỉnh lễ Ðức Chí Tôn và các Ðấng. [Thiên phục là áo
rộng có màu và mão Lễ Sanh]
2.
Mặc Tiểu phục vào Báo Ân Từ kỉnh lễ Ðức Phật Mẫu và Cửu Huyền Thất Tổ.
3. Mặc Tiểu phục đến Hộ Pháp Ðường kỉnh lễ Ðức
Hộ Pháp (cầu nguyện ban ơn lành cho đi hành đạo).
4. Mặc Tiểu phục chào Ngài Ðầu Sư để thọ lời
phủ dụ.
5.
Mặc Tiểu phục chào Thái, Thượng, Ngọc Chánh Phối Sư để nghe lời giáo hóa.
6.
Mặc Tiểu phục chào Thượng Thống Lại Viện để nghe những điều căn dặn thêm và nhận
lãnh công văn thơ tín.
7.
Mặc Tiểu phục chào Thượng Thống và Chức sắc tùng sự chung một Viện với mình trước
ngày thuyên bổ, để lời từ giã lên đường hành đạo.[Tiểu phục là áo dài chẹt trắng,
đội khăn đóng đen]
Khi
đến Châu Ðạo: Khi đến Châu Ðạo, mặc Tiểu phục chào Khâm Châu Ðạo (KCÐ), trình
Huấn lịnh thuyên bổ và tờ Thông Hành Ðạo cho KCÐ chứng kiến và nhờ KCÐ tiến dẫn
đến Tộc Ðạo, hoặc KCÐ viết thơ giới thiệu vị Tân Ðầu Tộc Ðạo, để ông Cựu Ðầu Tộc
Ðạo và toàn đạo địa phương nhận định giao lãnh trách nhậm
Khi đến Tộc Ðạo:
Nơi địa phương, Bàn Trị Sự (BTS) và toàn đạo nam nữ nghe tin Tân Ðầu Tộc Ðạo mới
bổ đến đều lo tiếp rước. Nếu nghi lễ có lập bàn hương án và nhạc long trọng
đông người thì bổn phận Ðầu Tộc Ðạo (ÐTÐ) thi hành như sau:
Mặc Thiên phục, quần
trắng, giày bố trắng, luôn luôn giữ gương mặt vui tươi, tờ Huấn lịnh xếp lại để
sẵn vào một bao thơ để trên cái dĩa, hoặc hộp giấy tinh khiết, chính tay vị Tân
ÐTÐ bưng đến để trên bàn hương án, xá 3 xá, rồi bước tránh đứng hầu một bên, một
vị Chánh Trị Sự cao niên thay mặt toàn đạo lạy bàn hương án để tỏ lòng tiếp rước
Huấn lịnh của Hội Thánh gởi tới. Chức việc lạy rồi, Tân ÐTÐ day trở ra ngoài
nói:
“Thưa chư Chức sắc,
Chức việc, chư hiền huynh hiền tỷ, hiền hữu, hiền muội, các em đồng nhi nam nữ
Hành Chánh và Phước Thiện, . . . Hôm nay, toàn Tộc Ðạo vì thành kỉnh Hội Thánh
nên tiếp rước Huấn lịnh với rước tôi thật long trọng. Tôi vưng lịnh Hội Thánh
chuyển lời ban ơn toàn Tộc Ðạo nầy được thêm sự thấm nhuần đạo đức, phấn khởi
tinh thần, đưa đến nhiều cuộc an vui, chung hưởng phước lành của Ðức Chí Tôn
chan rưới. Riêng tôi, nhơn danh Tân Ðầu Tộc Ðạo, xin kính lời chào mừng toàn Tộc
Ðạo và cám ơn chung quí hiền huynh hiền tỷ đã đem sự vui vẻ, tỏ tình thân mến,
dành tặng cho tôi trong buổi đầu tiên. Vậy, xin mời chư hiền huynh hiền tỷ đồng
cùng tôi vào bửu điện kỉnh lễ Ðức Chí Tôn và nghe đọc Huấn lịnh.”
Tân Ðầu Tộc Đạo nhớ
cổi giày để ngoài thềm, chọn một vị Chánh Trị Sự cao niên tại địa phương, thay
mặt toàn đạo, bưng hộp đựng Huấn lịnh, đi sau lưng tân Ðầu Tộc Đạo, chư đạo nam
nữ đồng theo vào bửu điện, để Huấn lịnh trên Thiên bàn, cả thảy đồng kỉnh lễ Ðức
Chí Tôn.
Lạy rồi, Khâm Châu Ðạo tuyên đọc Huấn lịnh Hội
Thánh thuyên bổ cho toàn đạo nghe và có lời khen ngợi việc tiếp rước nầy được
tôn nghiêm long trọng và cũng không quên khuyến nhủ việc tu hiền cho chư thiện
tín nghe, và khuyên nên tận tâm giúp cho tân Ðầu Tộc Đạo. Kế tân Ðầu Tộc Đạo
nói:
“Thưa chư hiền huynh hiền tỷ, Lễ tiếp rước Huấn
lịnh và Tân Ðầu Tộc Ðạo được tốt đẹp, tôi rất cảm tình toàn đạo trong buổi sơ
giao nầy. Xin kính mời chư hiền huynh hiền tỷ trở vào hậu đường để cùng nhau luận
đàm đạo đức.”
Khi trở vào hậu đường,
Tân Ðầu Tộc Đạo hỏi thăm ông Chánh Trị Sự sở tại, có Ðền thờ Phật Mẫu chưa, như
có thì tân Ðầu Tộc Đạo phải nói:
“Thưa chư hiền
huynh hiền tỷ, xin mời chư vị vui lòng ngồi uống nước chờ đôi phút, vì tôi phải
đi kỉnh lễ Ðức Phật Mẫu.”
Rồi trở lại văn
phòng Bàn Trị Sự, có đọc diễn văn chào mừng, Tân Ðầu Tộc Ðạo phải lẳng lặng ngồi
nghe, để ý chăm chú từ lời nói của mỗi vị, chót hết, Tân Ðầu Tộc Ðạo phải đáp từ,
nếu có viết sẵn bài đáp từ cũng tốt, bằng không nói ứng khẩu trôi chảy càng
hay:
“Ðại ý vâng lịnh Hội
Thánh thuyên bổ đến Tộc Ðạo nầy để góp trí chung tâm, cộng ưu hòa ái với chư hiền
huynh hiền tỷ hiệp một lòng cùng nhau kỉnh thờ Ðức Chí Tôn, tuân y Chơn truyền
Luật pháp của Hội Thánh Tòa Thánh Tây Ninh, sau nữa giao tình thân ái, kết
nghĩa thương yêu trong cửa đạo lẫn ngoài đời, đặng tương thân hòa ái hầu chung
hưởng mùi đạo đức an vui. Sở vọng tôi mong ước toàn đạo thương tôi là người ít
đức thiếu tài nhưng nhờ lập công quả nhiều năm nên Ơn Trên ban thưởng cho chức
phẩm đạo. Nay vâng mạng lịnh đi hành đạo tha phương, phải trông nhờ Bàn Trị Sự
và chư hiền huynh hiền tỷ góp công giúp ý kiến giùm tôi, cũng như từ trước đã cộng
sự chung với ông Cựu Ðầu Tộc Ðạo vậy, để đồng tâm hiệp trí giúp nền đạo nơi nầy
tiến hành thêm trên đường phổ độ.”
Tùy trường hợp, do
hoàn cảnh nhận định để phát biểu ý kiến đáp từ trong buổi lễ tiếp rước đầu tiên
nầy, song Tân ÐTÐ nói hay đọc diễn văn không ngoài 5 phút (nói nhiều không
hay), xong rồi dự tiệc trà thân mật hoặc đãi bữa cơm. Tân Ðầu Tộc Đạo nên cẩn
thận về việc người đạo địa phương đãi mình trong buổi tiếp tân và trở về sau.
Các nơi, có một phần
ít, sự chay lạt chưa kỹ, còn dùng tôm cua, khô mực, tôm khô, hột vịt hoặc uống
rượu, vv... Ðầu Tộc nên dùng toàn chay tinh khiết, tránh các món trên đây.
Cần nhứt, sự ăn mặc
phải tự mình nghiêm khắc lấy mình, nên nhớ câu: «Ăn không cầu no, mặc không cầu
đẹp, không tìm cao lương mỹ vị để ăn, không kiếm hàng lụa tốt đẹp để mặc. » Bữa
cơm thanh đạm, vải bô tinh khiết là đủ, phô bày cử chỉ noi gương đạo đức để
toàn đạo địa phương nhận định. Giao lãnh trách nhiệm: Sau lễ tiếp rước xong rồi,
hỏi ý kiến Cựu Ðầu Tộc Đạo định ngày nào lập Vi bằng giao lãnh, mời Khâm Châu Đạo
chủ tọa và mời Bàn Trị Sự toàn Tộc Ðạo, Ban Tứ Vụ sở tại chứng kiến. Khi giao
lãnh, chú ý về sổ tài chánh cho kỹ lưỡng, hỏi ý kiến Bàn Trị Sự và Ban Tứ Vụ về
khoản tài chánh đó có ai kêu nài điều chi không, có kêu nài thì Cựu Ðầu Tộc Đạo
phải giải quyết cho xong sẽ giao lãnh, bằng chẳng kêu nài, thì ký tên nhận lãnh
kể từ ngày ấy về sau. Còn từ đó về trước, ông Cựu Ðầu Tộc Đạo chịu trách nhiệm.
Vi bằng lập 4 bản y nhau: 1 Tân, 1 Cựu, 1 Khâm Châu, 1 gởi Hội Thánh.
Viếng Chánh quyền
địa phương:
Giao lãnh xong rồi,
cậy ông Cựu Ðầu Tộc Đạo tiến dẫn đến viếng thăm Quận Trưởng, Trưởng Chi Cảnh
sát, Trưởng Chi Y tế, Trưởng Chi Bảo an, Chánh Tổng, Hội Ðồng Xã, vv... Tóm lại
là viếng thăm tất cả Chánh quyền sở tại để tỏ lòng thân thiện ngoại giao về sự
đời đạo tương đắc. Khi viếng Quận Trưởng và Trưởng Chi Cảnh sát, nên trình
Thông Hành Ðạo của Hội Thánh cấp phát, mời Quận Trưởng, Trưởng Chi, Hội Ðồng Xã
kiến thị (ký tên đóng dấu) để mai hậu đi hành đạo nơi thôn quê hẻo lánh, xuất
trình giấy hữu quyền đủ phần tín nhiệm với công chức quốc gia khi thừa hành phận
sự.
Thăm viếng mặt đời
xong thì thăm viếng mặt đạo: Viếng các Chức sắc Hàm phong, hưu trí (nam và nữ),
viếng Chức sắc Phước Thiện, viếng các Bàn Trị Sự , thăm quí bô lão, viếng các
bà sương phụ cao niên, nếu có thể được, viếng các gia đình người đạo, bằng
không đủ thời giờ thì chế bớt. Thăm viếng các hương đạo xong, tiếp tục hành đạo
đúng 1 tháng, gởi phúc trình về Khâm Châu Ðạo kể rõ các khoản sau đây: (Phúc
trình nầy làm 3 bản, chia ra: 1 bổn gởi KCÐ, 1 bổn nhờ Khâm Châu chuyển về Hội
Thánh, và một bổn để hồ sơ Tộc Ðạo.
1. Trong Tộc Ðạo
có bao nhiêu hương đạo?
2. Bàn Trị Sự tiếp
đón Ðầu Tộc Ðạo niềm nở không?
3. Toàn đạo tiếp
đón đông đảo vui vẻ không?
4. Tinh thần người
đạo địa phương thế nào? Có kết chặt trung thành tùng Hội Thánh Tây Ninh hay xu
hướng nơi nào không?
5. Sự thù tạc vãng
lai về tang sự, hôn nhơn, có tùng y Tân Luật không?
6. Về hoạn nạn tật
bệnh, giúp khó trợ nghèo, chư Ðạo hữu có siết chặt tình đoàn kết giúp đỡ nhau
không?
7. Trong Tộc Ðạo
có mấy Thánh Thất? Thánh Thất nào cột cây vách ván, nền đất lợp lá, nền đúc
vách gạch lợp ngói, .... kể tên rõ ra từng chi tiết của mỗi Thánh Thất. Ðất để
cất Thánh Thất do ai hiến hay Ðạo mua, số sào mẫu?
8. Thống kê Chức
việc mỗi cấp tổng cộng có bao nhiêu vị, Ban Nhạc Lễ, Ðồng nhi, số Nam, phụ,
lão, ấu nam nữ?
9. Ban Nhạc, Lễ
sĩ, Giáo nhi, Ðồng nhi, hành sự được điều hòa, trang nghiêm trong đàn cúng như ở
Tòa Thánh không?
10. Mức sống của
tín đồ thế nào? có những nghề gì?
11. Nguyện vọng của
toàn đạo địa phương là điều gì?
12. Nguyện vọng của
Ðầu Tộc Ðạo muốn điều gì giúp hay cho Ðạo?
Về cách nhóm Ðạo
hàng tháng:
1. Mỗi tháng nhóm
lệ Bàn Trị Sự (BTS) một kỳ, Ðầu Tộc Ðạo chủ tọa, lập chương trình đề nghị những
việc phần ích chung cho Ðạo, để mời BTS hiệp trí chung tâm giải quyết. BTS có
quyền phát biểu ý kiến trong phạm vi đạo đức, ý kiến nào được đa số dự hội chấp
thuận đặng đem vào Vi bằng đệ trình lên Khâm Châu Ðạo phê chuẩn. Khi được phê
chuẩn rồi, trả lại mới được ban hành và thi hành.
2. Kiểm điểm công
việc hành đạo trong tháng: Ðạo lịnh, Huấn lịnh, Huấn thị, Châu tri, Thơ tín của
Hội Thánh và Khâm Châu Đạo gởi tới, Ðầu Tộc Đạo kiểm điểm trong tháng BTS thi
hành mọi việc kết quả ra sao.
3. Thâu nhận Nguyệt
để và phúc trình của Hương đạo: Bàn Trị Sự mỗi tháng gởi Nguyệt để đến Ðầu Tộc
Ðạo kể rõ việc hành đạo trong tháng của Hương đạo. Việc nào đại sự thì gởi phúc
trình riêng, việc thường thì ghi vào Nguyệt để. Sau ngày nhóm lệ của BTS, Ðầu Tộc
Đạo góp đại ý Nguyệt để các Hương đạo để làm Nguyệt để của Tộc đạo, kể rõ tình
hình hành đạo trong tháng của Tộc đạo thế nào để gởi lên KCÐ. Việc đại sự thì
làm phúc trình riêng kể rành chi tiết (có mẫu Nguyệt để in sẵn).
4. Cách thức viết
phúc trình: Nên viết mỗi vấn đề một tờ phúc, không nên viết nhiều vấn đề vào một
tờ là để giúp thượng quyền dễ phê định và tiện việc xếp đặt hồ sơ. Nên viết
thúc kết đại ý, không nên kể dài dòng, tóm tắt nhưng đầy đủ chi tiết càng hay.
Về cách gởi giấy tờ
về Hội Thánh:
ÐTÐ gởi tờ phúc
trình chi tiết về Hội Thánh phải nhờ KCÐ vi chứng và chuyển dâng Hội Thánh,
không được tự mình gởi ngay về CTÐ, như thế là vượt bực, có 3 điều sơ sót:
- Thiếu Khâm Châu
Ðạo vi chứng rằng giấy tờ ấy quả thật của Ðầu Tộc Ðạo.
- Công việc ấy
không thông qua Khâm Châu Ðạo để tường trình ý kiến cho Hội Thánh rõ.
- Khó phân biệt giấy
tờ của kẻ ngoại cuộc, giả mạo con dấu và chữ ký tên
Ðể ý: Phúc trình
hoặc giấy tờ chi gởi về Hội Thánh phải có Khâm Châu Ðạo vi chứng, nếu thiếu Văn
phòng Lại Viện không nhìn nhận.
Về cách chứng giấy
tờ của Bàn Trị Sự:
Bàn Trị Sự (BTS) đệ
tờ đến giùm Ðạo hữu có xin điều gì thì Ðầu Tộc Ðạo (ÐTÐ) nên suy nghĩ cẩn thận,
xét kỹ coi lời đương sự yêu cầu có giúp hay cho người mà tổn thương danh thể Ðạo
không? Sẽ nhận định, như không tổn thương danh thể Ðạo thì phê cho, rồi trả lại
cho đương sự thi hành, bằng vô thẩm quyền thì chờ nhóm BTS giải quyết. Ðó là vấn
đề địa phương. Còn việc nào cần yếu thì dâng lên cho KCÐ xét định.
Nên để ý tờ giấy gởi
đến KCÐ, ÐTÐ phải chứng kiến và cho ý định cắt nghĩa hoàn cảnh đương sự yêu cầu
đáng cho hay không, rồi đề ngày tháng năm, ký tên đóng dấu. Chẳng nên chứng
suông, không ý kiến gì, KCÐ khó bề nhận định công việc của đương sự.
Về chứng, có ba ý
nghĩa sau đây:
1.) Trường hợp thứ
nhứt: Ðương sự là Ðạo hữu đưa giấy tờ đến.
a). BTS chứng thật
là thấy và biết rõ việc đó đúng y lời của đương sự trạng tỏ trong giấy tờ. BTS
chứng thật và cho ý kiến rồi gởi lên ÐTÐ.
b). ÐTÐ chứng kiến
là thấy và nghe rõ hoàn cảnh ấy nên nhận định chữ ký tên và con dấu của BTS chứng
trước là thật. ÐTÐ chứng kiến phải cho ý định rành rẽ rồi gởi lên KCÐ.
c). KCÐ vi chứng
là biết rõ chữ ký tên, con dấu của BTS và ÐTÐ, phải xét kỹ chứng thật và chứng
kiến có hợp pháp không, rồi đệ trình về Hội Thánh nhìn nhận vấn đề ấy là thật.
Chữ “thật” là biết rõ tờ giấy và công việc yêu cầu nầy của Chức việc, Chức sắc
trong Hội Thánh chớ không phải do người ngoại cuộc.
2.) Trường hợp thứ
hai: Nếu đương sự là BTS gởi tới ÐTÐ, ÐTÐ phải chứng thật, rồi gởi lên KCÐ. KCÐ
chứng kiến, xong rồi gởi về Lại Viện CTÐ.
3.) Trường hợp thứ
ba: Nếu đương sự là ÐTÐ gởi đến KCÐ thì KCÐ chứng thật rồi gởi về Lại Viện CTÐ.
Nên nhớ: - Cấp thứ
nhứt: CHỨNG THẬT.
- Cấp thứ nhì: CHỨNG
KIẾN.
- Cấp thứ ba: VI
CHỨNG.
Về ý nghĩa: Phê kiến
và Phê chuẩn:
• Phê kiến: có nghĩa khi trả xuống ban hành,
có khi còn phải dâng lên tối cao thượng lịnh.
• Phê chuẩn: tờ giấy
ấy dâng lên tột phẩm rồi, được phê chuẩn, trả xuống ban hành.
KẾT LUẬN: Ba sự chứng
và hai sự phê, ÐTÐ tùy hoàn cảnh, tùy phương nhận định để sử dụng.
Về Tài chánh: Nơi
địa phương các Thánh Thất, BTS có cử Ban Tứ Vụ để chung lo công việc tại Thánh
Thất. Phận sự Hộ Vụ giữ tài chánh địa phương, như tiền hành hương sở tại, để
quí tế, tu bổ Thánh Thất, châu cấp văn phòng, vv...
ÐTÐ không nên giữ
tài chánh địa phương, chỉ có quyền quan sát và chứng kiến sổ thâu xuất, chứng
thật Thông qui tiền hành hương để giao Hộ Vụ thâu nhận. Trừ ra tiền hành hương
gởi Tòa Thánh do người đạo địa phương hỷ cúng, BTS lập Thông qui rành rẽ đem đến
gởi ÐTÐ chuyển giao về Tòa Thánh thì ÐTÐ phải nhận lãnh gìn giữ châu đáo, chờ
đăng lại KCÐ, nếu sơ thất, ÐTÐ phải chịu trách nhiệm.
Về Lễ cúng: Ngoài
hai kỳ lễ sóc vọng và ngày Lễ vía, ÐTÐ phải cúng một ngày đêm ít nhứt 2 thời,
thời Tý hoặc thời nào tùy ý và do hoàn cảnh. Ban đêm khi rảnh rang công việc
văn phòng, nên tụng một thời DLCK để cầu nguyện cho đời hưởng thanh bình, nhơn
loại cộng lạc an ninh, Ðạo được đức tin đầy đủ.
Về sự vắng mặt nơi
văn phòng:
Khi về Tòa Thánh
chầu lễ, hoặc nạp công văn Hành Chánh Ðạo, phải xin phép KCÐ. Khi được phép rồi,
viết Tờ Ủy nhiệm một Chánh Trị Sự xử lý thường vụ văn phòng ÐTÐ trong thời hạn
nhứt định. Khi đi viếng các Hương đạo, phải có Chức việc gác thường trực tại
văn phòng, không nên bỏ vắng (trách nhiệm nầy cho tạm giải quyết những việc thường
thức, còn việc trọng đại thì chờ ÐTÐ, nếu cần thiết đệ lên KCÐ).
Chọn cử Thơ ký
giúp việc văn thư cho văn phòng ÐTÐ, để BTS chọn lựa và công cử. ÐTÐ chủ tọa và
chứng thật trong tờ cử, đệ trình KCÐ phê chuẩn.
Tóm lại, ÐTÐ không
được vắng mặt vô cớ.
Về tật bịnh của
người đạo cũng như người đời: Hễ mang xác thịt thân phàm, không ai tránh khỏi
con đường tứ khổ (sanh, lão, bịnh, tử), càng nặng nề trách nhậm hơn hết là vị
Chức sắc của ÐÐTKPÐ Tòa Thánh Tây Ninh, lãnh mạng lịnh Ðức Chí Tôn và Hội Thánh
đi hành đạo tha phương, tức là kề vai gánh vác, chia sớt nỗi đau khổ sầu than của
nhơn loại (nói chung) và của người tín đồ Cao Ðài (nói riêng) nên bổn phận ÐTÐ
khi hay tin người có bệnh, phải đến tận tư gia thăm viếng, an ủi, khuyên giải
tâm trí đau buồn của người bịnh, lo tầm thầy chỉ thuốc để thân nhân điều trị
cho bệnh nhân. Nếu bịnh nhân đơn cô nghèo khó, phải sắp đặt người đồng đạo ở gần
để luân phiên nuôi dưỡng, thang thuốc cho đến khi lành mạnh, nên góp công và của
để giúp đỡ hoàn cảnh trên đây (dầu đạo hay đời cũng đồng chung như một).
Về tang sự người đạo:
Khi đặng tin có
người đạo qui vị, dầu một em bé sơ sinh, cũng phải tìm cách nào làm cho linh hồn
ấy được hưởng đủ lễ cầu hồn và cầu siêu, cùng đưa đến phần mộ, đúng như nghi thức
của ÐÐTKPÐ, Hội Thánh đã dạy trong Tân Kinh. Nếu hay tin mà ngó lơ không lo cầu
hồn và cầu siêu cho người chết thì ÐTÐ còn khuyết điểm về phương tận độ.
Về tang sự của người
đời:
Khi nghe tin người
đời qui vị, chẳng hạn như quan viên, công chức hương đảng, quí cụ bô lão, quí
bà góa phụ kiên trinh thủ tiết, quí anh chị cô đơn nghèo khó, vv... ÐTÐ phải đến
điếu tang, chia buồn, cảnh nghèo khó phải tùy phương trợ giúp. Nếu tang gia chịu
tùng luật đạo, nhập môn lập thệ, an vị Thánh tượng thì được phép cầu hồn và cầu
siêu Bạt tiến, chung lo đưa xác đến phần mộ, để tỏ tình liên lạc, gây nghĩa
tương thân, làm cho người đời hòa ái với người đạo. Có hòa ái mới đi lần đến sự
thương yêu, có thương yêu mới có thiện cảm kính mến nhau, mới mong độ rỗi người
đời đem vào cửa đạo.
Về sự hoạn nạn của
người đạo cũng như người đời:
Khi nghe tin người
lâm hoạn nạn, phải đến nhà khổ chủ vấn an và khuyên giải, rồi hiệp ý kiến với
BTS chung lo giải cứu người qua hồi hoạn nạn, tùy hoàn cảnh lo liệu. Khi gặp
người đời cũng như người đạo, chẳng hạn như góa phụ, cô nhi, cơ hàn đói khổ,
tha hương lữ thứ, yếu tha già thải, tật bệnh đơn cô, . . . thì ÐTÐ phải hiệp với
toàn đạo địa phương, tùy mưu chước mà trợ giúp người thọ khổ.
Về hôn nhân của
người đạo:
ÐTÐ hiệp với BTS
chung lo chia vui cùng gia đình hôn chủ. Khi hành lễ cầu nguyện nơi Thánh Thất
hoặc tư gia, nên giải rõ bổn phận làm con, bổn phận làm chồng, bổn phận làm vợ
cho cô dâu chú rể nghe. Trai thì phải Tam cang Ngũ thường, gái thì Tam tùng Tứ
đức, y như nền nhơn luân của Ðức Thánh Nho giáo đã dạy từ thử và nên cắt nghĩa
những điển tích tiết phụ, nghĩa phu cho dâu rể biết rõ, như tích: «Dưới trăng
bóng ngọc còn nguyên, Ôm bình bao tóc sang hèn cũng cam.» (Kinh Hôn ph ối) và
gương tốt của Tống Hoằng.
Ðể ý: ÐTÐ không đặng
làm phép Hôn phối như tại Tòa Thánh, chỉ được cầu nguyện cho hai họ thành hôn
là đủ. Tang và Hôn, hoặc các lễ cúng khác, cần khuyên người đạo tùng y Tân Luật
và giữ toàn trai giới, cấm sát sanh.
Về cách mặc lễ phục
và đạo phục: Chầu lễ Ðức Chí Tôn, mặc Thiên phục. Chầu lễ Ðức Phật Mẫu, mặc áo
dài trắng, khăn đóng đen. Kỉnh lễ chùa, đình, lăng, miếu, mặc trường y 9 nút,
khăn đóng đen
Tang lễ và Hôn lễ,
mặc trường y 9 nút, khăn đóng đen.
Dự lễ mặt đời, cần
phải ăn mặc cho trang hoàng, trường y, quần, giày, vớ, khăn, cho sạch sẽ ngay
ngắn để giữ thể thống người đại diện của đạo một địa phương.
Về cách lễ bái người
cao niên hơn mình khi qui vị:
Chẳng luận phẩm tước
đạo đời, chỉ kỉnh người lớn tuổi hơn, không phân nam nữ, mặc trường y 9 nút,
khăn đóng đen, bái lễ trước linh cữu hoặc linh vị. Ðến nhà người đạo, phải mặc
áo dài trắng. Ở trong văn phòng một mình, không nên mặc quần cụt, áo thun lá, vận
chăn.
Ðể ý: Không nên mặc
quần áo đen, dầu đi hành đạo hay ở trong văn phòng cũng vậy. Nên dùng giày bố
trắng để tỏ ý tiết kiệm.
Về cử chỉ tiếp Huấn
lịnh, Ðạo lịnh:
Khi tiếp nhận Ðạo
lịnh, Huấn lịnh, Huấn thị, Thông tri của Hội Thánh hoặc KCÐ gởi tới, phải nhận
lãnh đủ hai tay, đựng trong một cái dĩa hoặc hộp giấy tinh khiết, đem để trên
bàn tại Thiên phong đường, rồi lấy áo dài trắng khăn đen mặc vào, đến trước bàn
xá Ðạo lịnh, Huấn lịnh, Huấn thị, Thông tri, xá 3 xá rồi mở ra đọc để tỏ lòng
kính trọng Hội Thánh và KCÐ, không nên mặc áo cụt mở ra đọc liền, như thế ắt
thiếu lễ kính trọng, dầu ở trong văn phòng một mình cũng phải mặc áo dài trắng
khi đọc Thánh lịnh, Ðạo lịnh, vv...
Về sự nhu cầu mức
sống của Ðầu Tộc Ðạo:
ÐTÐ không đặng đòi
hỏi địa phương cung cấp cho mình nhiều hơn món xài phí hằng ngày, nên giữ mức sống
vật chất thế nào cho ngang tín đồ, hoặc khổ hạnh hơn, còn tinh thần đạo đức của
mình lúc nào cũng sáng tỏ, vững chắc hơn tín đồ. Nếu mức sống của ÐTÐ sang trọng
sung sướng hơn người thì tín đồ sẽ so sánh, rồi tủi thân buồn phận. Tình cảnh ấy,
tín đồ sẽ lần lần xa lánh ÐTÐ, như thế khó mong gây thiện cảm để điều độ người
đi cùng bước đạo.
Về cách hòa giải
nhơn tâm:
Khi nghe anh Mít
chỉ trích hờn giận anh Xoài, ÐTÐ chớ vội tin liền, phải dè dặt lóng nghe tư
cách ông Xoài thế nào, sẽ nhận định coi ai phải ai quấy. Nên nhớ: người phải
cũng có ẩn cái quấy, còn người quấy cũng ẩn có cái phải bên trong, chỉ khác
nhau phải nhiều quấy ít hoặc phải ít quấy nhiều, có khi hiểu lầm một câu nói
chơi mà sanh ra thù hiềm, nghi kỵ, hờn giận lẫn nhau. Hoặc trong cơn cãi vã lẫn
nhau, hai người đấu khẩu tranh lấy lẽ phải về mình, khiến nên sanh chuyện cá
nhân ganh ghét.
Ðống lửa đang
cháy, muốn tắt phải nhờ nước tưới vào. ÐTÐ là giọt nước nhành dương để tưới vào
đống lửa thất tình của nhơn sanh đang cháy. ÐTÐ tìm cách cho hai bên hiệp mặt,
rồi đứng trung gian hoà giải, khuyên hai người nên ẩn nhẫn nhịn nhục, dung hòa
tha thứ cho nhau để chung lo việc đạo. Như thế mới mong cảm hóa lòng người
nguôi cơn giận ghét.
Ðể ý: Hai người
gây hoặc đánh lộn nhau, nếu không có người thứ ba đứng ra can gián thì không
hòa hiệp được (dầu hết giận cũng còn thẹn mặt) mà người thứ ba ấy là người lớn
tuổi hoặc lớn phẩm mới can gián được. Tâm lý đạo đời vẫn thế.
Bổn phận của Ðầu Tộc
Ðạo:
- Nên tránh những
điều: Tài, Sắc, Tánh nóng nảy giận hờn.
- Nên làm những việc:
1. Giúp người,
quên mình để làm nên cho người.
2. Thương người,
ra công tận tâm lo giải khổ cho người.
3. Nhận định toàn
cả gia đình Ðạo hữu là gia đình mình.
4. Công việc của
người Ðạo hữu là công việc mình.
5. Vợ con của người
Ðạo hữu là em cháu mình.
Tức là phải hòa
mình cùng cả Ðạo hữu hiệp một để chung lo công việc của đời lẫn đạo. Ði hành đạo
địa phương là một dịp để cho các em lập công và lập đức đó. Chức sắc có sứ mạng
thiêng liêng, cần trau giồi đức tánh và hằng xem Phương luyện kỷ đặng vào con
đường thứ ba Ðại Ðạo, để rèn luyện tinh thần đạo đức, thực thi trách nhậm.
TỔNG KẾT: Chức sắc
Ðầu Tộc Ðạo là người thay mặt Hội Thánh tại một địa phương, lãnh lịnh giáo dân
qui thiện, nên từ lời nói, cử chỉ đi đứng, đến hạnh nết tư cách cư xử của người
Chức sắc, bổn phận của ÐTÐ là phải cố gắng ép mình trong khuôn viên luật pháp để
nêu gương đạo đức cho xứng đáng là người thọ mạng lịnh nơi Hội Thánh.
Hỡi chư vị Lễ Sanh
Tân Ðầu Tộc Ðạo thân mến,
Phẩm vị thiêng
liêng còn đợi chờ đón rước các em trở về cựu vị. Nếu các em giữ trọn trách nhậm
mình đúng y Tân Pháp Ðạo, trở nên người xứng phận giáo đạo tha phương thì: Muôn
năm sử đạo nêu danh, ngàn thuở nhơn sanh ca tụng.
Cầu nguyện Ðức Chí
Tôn, Ðức Phật Mẫu, các Ðấng thiêng liêng ban ơn lành, khai mở trí huệ cho các
em tinh thần minh mẫn, xác thịt đầy đủ an khương, ngày mai các em lên đường đến
địa phương hành đạo đặng như ý muốn.
Ðời mến đức, Ðạo
thương tài,
Ðức tài hiệp một,
nhiều ngày lập công.
Hội Thánh mong ước
các em đi hành đạo được nhiều kết quả tốt.
Nay lời.
Viết tại Văn phòng
Lại Viện, ngày 30-1-Canh Tý (dl 26-2- 1960)
Q. Thượng Thống
Lại Viện Giáo Sư. NGỌC MỸ THANH (ký tên đóng dấu)
|
Phụ Thống Lại Viện
Giáo Hữu. NGỌC TỊNH THANH (ký tên) |