Trang

Thứ Ba, 11 tháng 5, 2021

3411. VI BẰNG 23/96

 


HTE ĐĐTKPĐ
VB:23/96

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Cửu Thập Lục Niên
TÒA THÁNH TÂY NINH.

 

VI BẰNG

Tóm lược cuộc họp 23/96.

Đề Tài: BA HỘI LẬP QUYỀN VẠN LINH .Bài số 3


1/- Thời gian và thành phần tham dự.

1.1/- Thời gian

 Lúc 19g30, thứ sáu ngày 28/02 Tân sửu (DL: 9/04/2021).

1.2/- Tham dự:

Phó Ban Chấp Hành.

CTS Lương Thị Nở

Ban Kiểm Soát Luật.

CTS Nguyễn Hữu Khanh

CTS Trần Quốc Tiến.

Người điều hành: Nguyễn Hồng Phượng

Các thành viên:  Phó Trị Sự Lương Văn Dương,  Huỳnh On (Quan Minh), Dương Xuân Lương (John Tùng), Ngọc Bích, Trương Văn Mai, Võ Lệ Dung (Mari Dung), 

2/- Thông qua Vi bằng cuộc họp 22/96.

  -Thông qua Vi bằng 22/96

3/- Chia sẻ đạo sự các địa phương.

3.1/- Ngày 25/2/ Tân Sửu (DL: 6/4/2021) HTE mời đồng đạo từ Bến Tre, Rạch Ông, Lâm Đồng, Bình Dương, Đồng Nai, Thủ Thừa, Chợ Gạo, Gò Công đến QUANG MINH TỰ tham dự Đại Lễ ĐỨC HUỲNH GIÁO CHỦ  Phật Giáo Hòa Hảo thọ nạn lần thứ 74. Phái đoàn khởi hành lúc 09 giờ tối hôm 5/4/2021. Trên đường đi có mang theo thức ăn. Phái đoàn đến nơi lúc 03 giờ sáng ngày hành lễ. Tu sĩ Võ Văn Thanh Liêm và quý Đạo Hữu Phật Giáo Hòa Hảo tiếp đón trong tình thân mật. Hiền huynh Chánh Trị Sự Nguyễn Văn Thiệt thay mặt cho phái đoàn phát biểu cảm tưởng. Buổi lễ diễn ra tốt đẹp. Phái đoàn trở về bình yên.




3.2/- Thánh Thất Nam Hoài Nhơn sơn sửa lại Thánh Thất.

Hội Thánh Em ĐĐTKPĐ mừng cho Thánh Thất Nam Hoài Nhơn có cơ ngơi tốt đẹp và có Thuyền Bát Nhã để phụng sự nhơn sanh.

Theo nhận định của HTE: Trong cuộc đánh úp Thánh Thất vừa qua đã lộ rõ một số nhân sự chưa thật sự trung thành với chơn truyền chánh giáo; số nầy chính là mối hiểm họa bên trong của Thánh Thất Nam Hoài Nhơn. Khi cô Đầu Tộc mãn phần thì có nguy cơ là có nội loạn đem dâng Thánh thất Nam Hoài Nhơn cho chi phái 1997 để lập công.

Đức Lý Giáo Tông dạy: Pháp luật đạo là binh khí diệt tà quyền rất mong đồng đạo Nam Hoài Nhơn có biện pháp phù hợp: Dụng pháp luật đạo để giử nghiêm trật tự. Hội Thánh Em tha thiết mong đồng đạo Nam Hoài Nhơn ý thức mối hiểm họa từ bên trong để con đường công quả được vẹn toàn.

Hội Thánh Em lưu ý các thành viên khi hành đạo buổi không có Hội Thánh cầm quyền hành chánh là chú ý đến tạo tăng hơn tạo tự. Nhân sự hành chánh là Bàn Trị Sự đã có thì chú ý đến Phước Thiện; có Phước Thiện song song với hành chánh mới đứng vững trong cơn đại khảo nầy.

4/ Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh Bài Số 3.

Bài nầy dài hơn 30 trang. HTE chọn vài đoạn có liên quan để thảo luận:

Xin trính những lời dạy của Đức Hộ Pháp: Ngày 15 - 8 - Quí Dậu (dl 4 - 10 - 1933) để cùng nhau suy gẫm: …

Bần đạo thấy đặng một lẽ phi thường không phương hiểu, nghĩa là những trang đạo đức lại có sẵn tâm tu, đã hưởng mùi chánh giáo của Chí Tôn mà còn thối gót phục tùng tả đạo.

Thật là làm chủ không muốn, làm tớ lại vừa lòng, tâm lý nhơn sanh vốn không cùng đoán.

Thầy đã tuyển chọn các bậc lương sanh, lập nên Hội Thánh đặng làm hình thể của Thầy, ban cho đủ uy linh quyền thế, làm cho Hội Thánh đủ quí hóa cao trọng đặng đáng mặt làm thầy, lập luật pháp, tuyển hiền tài, định quyền hành, phân đẳng cấp, nhứt là luật pháp thì thật là một cơ quan độc thiện làm cho hòa nhã liên lạc cả con cái của Thầy, hầu giảm hại chia phe lập phái. (Thầy đã nói: Kẻ nào chia phe lập phái là kẻ thù nghịch của Thầy.)  Hễ thù địch của Thầy tức là thù địch của nhơn sanh, mà thù địch của nhơn sanh ấy là thù địch của toàn Hội Thánh.

Đối với thù địch xưa nay, tâm phàm vốn ít hay thiện xử. Vậy thì sự thù oán nghịch lẫn của vài vị Thiên phong trong Hội Thánh gẫm cũng thường tình. Xin mấy vị rộng nghe ráng hiểu.

Nào dè những cơ quan pháp luật, thay vì buộc con cái của Thầy chung hiệp cùng nhau, lại đào tạo quyền hành quí trọng nên mùi thơm, giục cho sanh chúng tranh giành, làm cửa Đạo biến thành trường náo nhiệt.

Ôi!  Sự thất vọng của Thầy rất nên thê thảm!

Hại thay mới 8 năm truyền giáo, nên nhơn sanh chưa đủ thông luật Đạo cho cùng, bị cám dỗ nên nghe lời xảo lảo của kẻ bất lương, giúp thế lực cho tà tâm xô chánh giáo.

Thật ra thì nhơn sanh ngày nay còn theo người chớ chưa theo Thầy, nghe Chức sắc chớ không nghe Đạo. Nếu chúng sanh theo người thì là theo phàm tâm, mà phàm tâm vốn một người một thể, dầu cho tánh đức của mấy vị Giáo chủ cũng chẳng phù hợp nhau nên sanh hại chia phe lập phái.

Bần đạo thử hỏi, thoảng như Đạo phải cô thế điêu tàn, tội trọng ấy đổ cho ai gánh?

Của cải của Trời cho nhơn sanh, nhơn sanh chê, nhơn sanh đốt thì nhơn sanh chịu. Báu của ai phòng để dạ giữ gìn, còn của thế mà mất đi cũng thế, miễn cho kẻ tà tâm có thế lực đôi hồi, loạn Hội Thánh đoạt vị ngôi là thỏa vọng. (Ấy là học theo truyện Tề Thiên loạn Thiên cung đặng nài chức Bậc Mã Ôn).

Chẳng biết những người tâm đạo mới nghĩ ra sao?

Nè chư Đạo hữu lưỡng phái,

Xin nhớ rằng Đạo là của chung cả chúng sanh, dầu cho ai thù ai oán, ai giận ai hờn, mưu hại lẫn nhau cũng trối kệ, chớ vì thù oán giận hờn, ai ra tay độc phá nền Đạo thì người ấy là tội nhân của toàn sanh chúng đa nghe.

Bần đạo hằng đặng tin tức của mấy tỉnh Hậu giang cho hay rằng nhiều tay phản Đạo, đi khắp nơi kích bác Pháp Chánh Truyền, lại dối gạt Pháp Chánh Truyền đầy nỗi hại.

Có nhiều Đạo hữu phản kháng hỏi: Hại tại nơi đâu? Thì kẻ phản Đạo không phương giải rõ.

Bần đạo cũng bắt chước hỏi:  Hại tại chỗ nào?

Á phải! Có hại thật, thật có hại cho quyền Hội Thánh, vì Bần đạo ban rộng rãi cho nhơn sanh đủ thế lực quyền hành dám kháng cự cùng quyền Hội Thánh.

Hỏi: Người đồ mưu kích bác Pháp Chánh Truyền là ai ?  - Có phải một vị đại Thiên phong của Hội Thánh và những Chức sắc phe đảng của Ngài. Chư Đạo hữu chư Đạo muội lưỡng phái tìm hiểu cho cùng thì biết rõ ràng chơn lý.

(Ôi!  Ai đã để hy vọng một ngày kia làm chúa cả của toàn nền Đạo thì cũng lo giảm thế lực của nhơn sanh đặng dễ dỗ dễ tranh, hầu lợi dụng lấy quyền công cử. Ấy cũng là phàm kế mà thôi.)

Cái hại thật của Hội Thánh là tại sao cho Chánh Trị Sự một quyền hành cùng phẩm Đầu Sư nơi địa phận một làng sở tại, còn Thông Sự một quyền Hộ Pháp, Phó Trị Sự lại giống Giáo Tông, song hành chánh nội trong một xóm.

Lại nữa, Đạo chia ra ba quyền đặc biệt:

* Quyền Nhơn sanh : là từ phẩm Lễ Sanh, Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự, Thông Sự và cả phái viên toàn đạo hiệp đồng định luật lịnh phục hành Thể pháp. Chánh Phối Sư phái Thượng làm Chủ tọa. Hội nầy có hai vị Chức sắc Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài dự hội.

* Quyền Hội Thánh : là Hiệp Thiên Đài thì Thập nhị Thời Quân, Cửu Trùng Đài thì từ phẩm Chánh Phối Sư, Phối Sư, Giáo Sư và Giáo Hữu thì vâng luật pháp thi hành chánh trị, Chánh Phối Sư phái Thái làm Chủ tọa hội nầy.

* Quyền Thượng Hội: là HTĐ thì Hộ Pháp. Thượng Phẩm, Thượng Sanh; Cửu Trùng Đài thì Giáo Tông, Chưởng Pháp và Đầu Sư, cầm luật pháp điều hòa đạo mạch. Thượng Hội không quyền sửa trị, duy thi hành luật lịnh Chí Tôn, kỳ dư khi nào Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh phản khắc cùng nhau làm nền Đạo chinh nghiêng  nguy hiểm thì Đầu Sư mới đặng thống quyền nắm Đạo pháp thi hành chánh trị. (Quyền Thống nhứt phải có đủ quyền Vạn linh và quyền Chí Tôn hiệp đồng ban cho mới đặng). Hội nầy của quyền Chí Tôn (là Giáo Tông và Hộ Pháp) làm Chủ tọa.

Trừ hai vị Đại Thiên phong là Giáo Tông và Hộ Pháp đã thay quyền Chí Tôn tại thế ra, cả ba Hội công đồng mới có quyền Vạn linh đủ phép.

Ấy vậy, Đạo có Quyền Vạn linh chớ không có Hội Vạn linh.

Chư Đạo hữu lưỡng phái biết đặng luật nầy thì sao cũng buồn cười cho Hội Vạn linh của Quyền Ngọc Đầu Sư buổi nọ! (Ngọc Trang Thanh, Lê Bá Trang).

Vậy thì Hội Nhơn sanh là một quyền lực của Vạn linh, nếu không phân trách nhậm công bình, thiếu phương thế mong chi giữ pháp.

Ôi!  Nhiều Đạo đã khi rẻ chúng sanh và chúng sanh chê Đạo cũng bởi thiếu cơ quan nầy mà chớ.

Bần đạo nhớ lại khi ban hành Pháp Chánh Truyền thì làm cho nhiều vị Thiên phong Cửu Trùng Đài thất chí, nhứt là Cụ Lớn.

Bần đạo mới nói trên đây, đã sai một vị kia ra lập phái đặng kích bác chơn truyền, hầu đánh đổ  quyền hành Chánh Trị Sự, Phó Trị Sự và Thông Sự, nghĩa là quyền nhơn sanh cho tận diệt. May thay có Chí Tôn phò trợ nên không kết quả chút nào và nghe ra Chi phái ấy ngày nay đã tan tành rời rã.

Bần đạo nghĩ cũng nực cười vì họ cũng có thế dỗ dành cho tín đồ lầm lạc, thật là họ dụng phản gián mưu sâu đặng xúi nhơn sanh tự vận.

Đảng phái ấy đã cả gan dám lột cổ pháp và cổi sắc lịnh một vị Trị Sự đương bận hành lễ, liệng trước mặt của đông người, mà sao nhiều vị tín đồ cũng không hiểu nghĩa.

Bần đạo khổ thân nhọc trí, càng lo bảo hộ quyền thế của mỗi người, càng bị nhiều kẻ đồ mưu xúi người ơn đem trả oán. Thiệt tâm lý của người đời rất nên ghê gớm.

Đạo là Đạo, mà ai cũng Đạo.

Thể pháp (nghĩa là ngoại dung) thì buộc, nào là phẩm, nào là quyền hành, chớ trước Bí pháp (nghĩa là nội dung) cả con cái của Chí Tôn đồng một bực. Không phân lớn nhỏ, chẳng kể sang hèn, hình tướng Chí Linh vẫn đồng một thể.

Bần đạo hằng nghe mấy vị Chức việc mấy Họ Đạo Lục Tỉnh than rằng: Phận thiệt thòi nên không dám trèo đèo luận biện với Bề trên Chức sắc.

Bần đạo xin tỏ rằng: Duy bậc phẩm hèn của Đạo mới dày công nghiệp với Chí Tôn, còn có công nghiệp thì có đủ quyền hành, có quyền hành thì có tự do ngôn luận. Cũng vì chư Đạo hữu trong Hội Nhơn Sanh chưa hiểu rõ quyền hành nên Chức Sắc Thiên Phong lộng phép. (Xin chư Đạo hữu lưỡng phái đọc luật cho thường, rồi kiếm hiểu).….

Chí Tôn đã dạy rằng, phải tùy theo phong hóa của các sắc dân sanh mà truyền giáo, thì người cũng tùy Nhơn đạo lập chơn truyền, bởi ta tham trọng thế lớn quyền, Thầy mới tạo ngôi Tiên vị Phật.….

Hễ mọi điều chi có hữu ích thì có hữu hại.

“Sau nầy Thầy e cho cơ bút sẽ hại cho nhơn sanh mê tín dị đoan cũng bởi vì ưa ham phẩm vị. Nào là thành Tiên hiển Phật, nào là xưng Thánh hô Thần, xúi tục tánh ham gần mộng mị.”

Lời tiên tri nầy ngày nay kết quả.    

Ta thử thầm hỏi lấy tâm ta rằng: Đại Từ Phụ muốn cho ta ra phận sự gì? Nó ắt trả lời: Thế thì Thầy muốn cho ta thiện niệm, thiện hành, thiện tu thiện giáo, đặng nêu gương cảm hóa người đời, còn làm trái hẳn tôn chỉ cao thượng của Thầy mà gieo ác thì là kế Quỉ vương giục loạn.

Hành đạo là khó, mà bảo chơn lại càng khó, bởi đó mà phận sự của Hội Thánh rất nên yếu trọng. Nầy là mặt luật, nọ là nhơn tâm, vẫn đôi bên phản khắc. Nếu muốn đắc nhơn tâm phải phế vong mặt luật, còn như thi hành chánh luật ắt là thất nhơn tâm, hỏi Hội Thánh phải hành pháp thể nào đặng vừa lòng công chúng?

Phải theo công chúng bỏ chơn truyền hay là nắm chơn truyền đặng hành quyền cùng công chúng?

Phải quấy để lòng người suy gẫm, Bần đạo không minh luận ra đây.

Sự vừa lòng công chúng đã hại nhiều tôn giáo chơn chánh qui phàm, chúng ta nên noi gương ấy mà tùng theo, hay là phải tìm đường xa lánh?

Còn như không vừa theo công chúng, người chê bai xa lánh Đạo mới sao?

Thật là khổ!  Phải cho có đủ khôn ngoan trí thức thiêng liêng mới tìm thấy trung dung Đại Đạo.

Hạng phẩm và trách nhậm đặc biệt phân minh của Hội Thánh có nên để cho rối loạn cùng chăng?

Nếu trật tự không vững gìn, dầu Chí Tôn có cho Hội Thánh quyền hành cao trọng thể nào, Đạo rẻ giá bất năng vô ích.

Luật pháp cốt để giữ nghiêm trật tự của Chức sắc Thiên phong biết phận sự mình, hiểu phẩm hạnh mình, đủ thể diện bảo an Hội Thánh.…

Thật phải vậy đó chút. Hễ phá pháp luật là phá giá trị của Hội Thánh, mà Hội Thánh mất giá trị thì Đạo phải điêu tàn tiêu diệt. Bần đạo tưởng muốn hại Đạo, không có thế nào hay hơn là phá tiêu pháp luật.….

Hiệp Thiên Đài là cơ quan bảo thủ chơn truyền có nên để cho Chức sắc lộng quyền phá tiêu pháp luật hay không?  Bần đạo để cho chúng sanh định lý mà trả lời giùm, chớ ngòi bút của kẻ biết tu chẳng nỡ để câu ác luận. Chức sắc Thiên phong cốt để thi hành luật pháp, chớ chẳng phải nương chánh giáo đặng làm quyền. Hễ vị nào lập thế lực riêng thì vị ấy tự nhiên lộng pháp

Bần đạo đã cầm luật pháp nơi Hiệp Thiên Đài đặng bảo an Hội Thánh thì những người xâm phạm luật pháp, lạm dụng Đạo quyền phải đi ngang qua mặt Bần đạo hành quyền trước đã, rồi mới toan rối loạn chơn truyền, sanh chiến tranh phấn đấu tự nhiên, thắng Bần đạo mới mong hại Đạo.

Hại thay!  Thật ra cũng có lắm kẻ tà tâm, may nương cội Đạo đã làm điều tồi tệ đắc tội với nhơn sanh, lại lạm hưởng phận sự bảo hộ Hội Thánh của Bần đạo phải thi hành nên hại Bần đạo nhiều phen phải cùng chung nhục nhã.

Ôi!  Phận sự cầm cân công bình thiêng liêng của Chí Tôn tại thế, vốn không phải dễ. Hễ muốn trọng hồn thì phải nghiêm trừng xác thịt, mà nghiêm trừng xác thịt vốn là phương kết oán gây thù, còn trọng xác thịt, rộng thứ dung thì linh hồn sẽ tự nhiên sa đọa, mà để các đẳng linh hồn sa đọa thì lại đắc tội cùng Thầy.

Làm cho vẹn phận sự khó thôi rất khó! (hết trích).

4.1/- Về ý nghĩa và tầm quan trọng của Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh và Quyền Chí Tôn tại thế HTE đã thảo luận trong nhiều phiên họp và đúc kết trong:

Vi bằng số 10/96 ngày 22-1-2012 link

https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2021/03/3397-vi-bang-phien-hop-1096-cua-hte-tkp.htmlHTEmore

Vi bằng số 13/96 ngày 01-02-2021 link:

https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2021/03/3398-vi-bang-1396-cua-hte-tkp.html

Vi bằng số 14/96 ngày 01-3-2012

https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2021/03/3404-vi-bang-1496-phan-tich-bai-thanh.html

Vi bằng số 20/96 ngày 26-3-2021 link

https://khoinhonsanh2014.blogspot.com/2021/04/3406-vi-bang-2096-khong-co-thuong-chanh.htmlHTEmore

4.2/- Trích đoạn: Thật ra thì nhơn sanh ngày nay còn theo người chớ chưa theo Thầy, nghe Chức sắc chớ không nghe Đạo. Cũng vì chư Đạo hữu trong Hội Nhơn Sanh chưa hiểu rõ quyền hành nên Chức Sắc Thiên Phong lộng phép. (Xin chư Đạo hữu lưỡng phái đọc luật cho thường, rồi kiếm hiểu).….

Ý thức được lời dạy trên nên HTE theo đạo chứ nhất định không theo ý riêng một vị chức sắc nào nghĩa là lấy các văn bản của Hội Thánh đã  ban hành làm gốc. Trong các văn bản ấy nếu có sự khác biệt nhau thì căn cứ vào triết lý và nguyên tắc QUỐC ĐẠO để phân tích và chọn lựa.

4.2.1/- Thánh Ngôn Hiệp Tuyển là căn bản nhất mọi cái phải theo đó.

4.2.2/- Những kinh sách do Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ phát hành và giữ bản quyền.

4.2.3/ Những văn bản từ Đức Hộ Pháp, kể cả các văn bản chưa được Hội Thánh kiểm duyệt và phát hành cũng được tôn trọng.

4.2.4/- Các vi bằng của Hội Thánh Lưỡng Đài.

4.2.5/- Các công văn của chức sắc thay mặt cho Hội Thánh Hiệp Thiên hay Cửu Trùng ban hành theo trách nhiệm.

4.3.6/- Đức Lý Giáo Tông dạy: Pháp luật đạo là binh khí diệt tà quyền. Nên mọi việc chi đã có pháp luật qui định thì cứ theo đó làm gốc. Theo Lời Minh Thệ khi nhập môn cầu đạo là gìn luật lệ Cao Đài. Luật thì hẳn nhiên có văn bản, khi nào luật không qui định mới xài tới lệ. Nếu có luật rồi mà còn muốn bỏ luật xài lệ là không phù hợp với QUỐC ĐẠO. Chữ LỆ CAO ĐÀI hoàn toàn không có nghĩa là lệ làng (mỗi làng có lệ riêng) trong thời văn minh nông nghiệp.

Án lệ trong một quốc gia là khi xảy ra một trường hợp pháp luật không qui định rõ ràng hay ngoài phạm vi của các luật thì nhân sự có thẩm quyền cao cấp nhất về luật pháp xem xét và giải quyết theo đạo lý. Từ đó về sau khi có việc tương tự thì cứ chiếu theo đó mà giải quyết nên thành ra ÁN LỆ.

Lệ trong nền văn minh tâm linh phải do Quyền Chí Tôn tại thế (là các án đã căn cứ vào đạo lý để xử hay các bút phê còn lưu lại). Lệ chỉ xuất hiện khi có tình huống mà Pháp & Luật không bao quát hết. Lệ không phải do các địa phương hay nhiều người làm rồi viện lẽ rằng đó là lệ. Hiểu chữ lệ như thế thì toàn bộ pháp luật của đạo trở nên vô dụng và đạo loạn lạc rồi tan rã.

4.2.7/- Nhận định rõ đúng sai khác với phù hợp hay không phù hợp để áp dụng trong việc hành đạo. Trên phương diện pháp luật đạo thì khẳng định có sự đúng và sai.  Trên phương diện nghi lễ HTE nhận định là phù hợp hay không còn phù hợp.

Thí dụ về pháp luật đạo: Đúng sai minh bạch và dứt khoát

Thí dụ 1: Năm 1979 Hội Thánh Cao Đài lập ra Hội Đồng Chưởng Quản CỦA Hội Thánh Cao Đài và công cử Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa (Q Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài) là Chưởng Quản là đúng.

Đến năm 1982 một số chức sắc tự ý lập ra Hội Đồng Quản Lý Hội Thánh Cao Đài do ông Thái Hiểu Thanh làm Hội Trưởng là sai. Bởi vì họ không do Hội Thánh lập ra; cái gốc về pháp lý đã sai thì không cần xét đến các công văn chi của họ.

Thí dụ 2: Năm 1989 Ủy Ban tỉnh Tây Ninh ra quyết định 88 thành lập Hội Đồng Chưởng Quản do ông Thượng Thơ Thanh (Hồ Ngọc Thơ) làm Hội Trưởng và cấp con dấu Hội Đồng Chưởng Quản cho quý vị nầy hành đạo là sai. Cái gốc pháp lý đã sai thì tất cả luật lịnh của họ đều không có giá trị trong đạo.  

Thí dụ 2: Pháp Chánh Truyền qui định Chức sắc cầu phong hay cầu thăng phải do nơi cơ bút tại Cung Đạo (Đền Thánh) mà số chức sắc đem banh vàng xanh đỏ vào Cung Đạo thay cho cơ bút là sai.

Thí dụ 3: Pháp Chánh Truyền qui định Chức sắc cầu phong hay cầu thăng phải do nơi cơ bút tại Cung Đạo (Đền Thánh) mà số chức sắc đem banh vàng xanh đỏ vào Cung Đạo thay cho cơ bút là sai.

Thí dụ về nghi lễ: Phù hợp hay không phù hợp.

Năm 1963 Hội Thánh Cao Đài ban hành quyển TANG LỄ. Đến năm 1970 Hội Thánh Lưỡng Đài họp và lập Ủy Ban Hỗn Hợp biên soạn QUAN HÔN TANG LỄ. Đến năm 1975 hoàn thành và dâng lên Đức Hộ Pháp phê chuẩn sau đó dâng lên Đức Lý Giáo Tông Kiêm Nhứt Trấn Oai Nghiêm phê chuẩn tại Cung Đạo (17-12-1975) và Hội Thánh ban hành năm 1976 thì căn cứ vào đó mà thực hiện.

Như vậy các nghi tiết của TANG LỄ năm 1963 đã được thay thế bằng QUAN HÔN TANG LỄ cho phù hợp.

Nó cũng như xe Gobel, xe Sach, xe Mobilet… không còn phù hợp nữa thì không xài chớ không phải các xe ấy sai.

4.3/- Trích đoạn: Á phải! Có hại thật, thật có hại cho quyền Hội Thánh, vì Bần đạo ban rộng rãi cho nhơn sanh đủ thế lực quyền hành dám kháng cự cùng quyền Hội Thánh…

Cái hại thật của Hội Thánh là tại sao cho Chánh Trị Sự một quyền hành cùng phẩm Đầu Sư nơi địa phận một làng sở tại, còn Thông Sự một quyền Hộ Pháp, Phó Trị Sự lại giống Giáo Tông, song hành chánh nội trong một xóm….

Vậy thì Hội Nhơn sanh là một quyền lực của Vạn linh, nếu không phân trách nhậm công bình, thiếu phương thế mong chi giữ pháp. Ôi!  Nhiều Đạo đã khi rẻ chúng sanh và chúng sanh chê Đạo cũng bởi thiếu cơ quan nầy mà chớ…

Theo các nội dung trên đây thì pháp luật đạo đã phân quyền hạn rất minh bạch. Hội Nhơn Sanh đã thể hiện Tự do trong đạo đức và dân chủ có nhân quyền. Bởi Chí Tôn khai đạo năm 1926 thì nhân loại đã tăng tiến về phương diện văn minh vật chất rất cao mà tinh thần đạo đức không theo kịp, nên Thầy lập đạo để giúp nhân loại tìm thấy sự thăng bằng của vật chất và tinh thần trong cá nhân và đoàn thể (Thể pháp Đại Đồng Xã).

Thầy ban quyền cho Nhơn Sanh và ban quyền cho Hội Thánh hai quyền ấy đều có khuôn luật để thực thi trong tình huynh đệ một nhà cùng một đức tin, cùng một nòi giống (con chung của Thượng Đế) và cùng một tôn giáo (xã hội Cao Đài). Trên dạy dưới phải lấy lễ, dưới gián trên đừng thất khiêm cung.

4.4/- Tìm hiểu TRUNG DUNG ĐẠI ĐẠO.

Trích đoạn: Hành đạo là khó, mà bảo chơn lại càng khó, bởi đó mà phận sự của Hội Thánh rất nên yếu trọng. Nầy là mặt luật, nọ là nhơn tâm, vẫn đôi bên phản khắc. Nếu muốn đắc nhơn tâm phải phế vong mặt luật, còn như thi hành chánh luật ắt là thất nhơn tâm, hỏi Hội Thánh phải hành pháp thể nào đặng vừa lòng công chúng?

Phải theo công chúng bỏ chơn truyền hay là nắm chơn truyền đặng hành quyền cùng công chúng?

Phải quấy để lòng người suy gẫm, Bần đạo không minh luận ra đây.

Sự vừa lòng công chúng đã hại nhiều tôn giáo chơn chánh qui phàm, chúng ta nên noi gương ấy mà tùng theo, hay là phải tìm đường xa lánh?

Còn như không vừa theo công chúng, người chê bai xa lánh Đạo mới sao?

Thật là khổ!  Phải cho có đủ khôn ngoan trí thức thiêng liêng mới tìm thấy trung dung Đại Đạo.

Chơn truyền là gì? Là những lời dạy của Thầy và cấc Đấng để lập ra Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Trong chơn truyền có thể pháp và bí pháp. Về thể pháp là các kinh sách, các công trình kiến trúc do thiêng liêng dạy lập ra, cách tổ chức các cơ quan…

Trong đó Pháp Chánh Truyền là bất di bất dịch, không ai đặng phép sửa đổi. Nhưng ngay trong cái bất di bất dịch ấy Thầy đã cho phép sự uyển chuyển về cách thờ phượng trong khi chú giải. Phần Lễ Sanh Nam phái Thầy dạy: PHÁP CHÁNH TRUYỀN: Chúng nó đặng đi khai đàn cho mỗi Tín Đồ.

CHÚ GIẢI: Lễ Sanh phải đi thăm viếng các nhà Đạo Hữu, thượng tượng khai đàn; dạy cho biết lễ nghi cúng tế Thầy, thay quyền cho Giáo Hữu.

Như ngày kia Đạo đã xuất dương ra ngoại quốc thì sẽ có nhiều dân tộc chẳng có thể thờ phượng như Nam, phận sự của Lễ Sanh đây mới ra sao? Tưởng chẳng chi khác hơn là đổi ra phần thăm viếng Tín Đồ, an ủi, dạy dỗ chăm nom dìu dắt trong đường Đạo cũng như đường Đời, thay quyền cho Giáo Hữu

Thầy dạy Đạo tức là con đường… con đường đi đâu? Thiển nghĩ đó là con đường về với Thầy. Con đường về với Thầy có 3 cách: Đi theo Hành Chánh Đạo, đi theo Phước Thiện và Tu Chơn.

Trong Hành Chánh Đạo có Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài. Nhiệm vụ của hai đài vẫn khác nhau.

Hiệp Thiên Đài là cơ quan bảo thủ pháp luật chơn truyền. Còn bên Cửu Trùng Đài là Giáo hóa chơn truyền.

Cho nên nhiêm vụ của HTE và người đạo là giúp cho người đạo hiểu biết về pháp luật chơn truyền, hiểu tầm quan trọng và sự thăng đọa của một kiếp sinh là do sự giữ gìn pháp luật chơn truyền để họ tự giác, tự nguyện thực hiện.

Kinh Cầu Hồn khi hấp hối: Xét câu Minh Thệ gởi mình cõi thăng…) cho nên nhiêm vụ của người hành đạo là đem lại sự an lạc và hòa thuận cho người đạo mà vẫn đúng với pháp luật chơn truyền, ấy là giúp cho đồng đạo tự lập vị lấy họ. Cái hư hoại của một tập thể, một tổ chức thường là từ thượng tầng nắm quyền hành rồi ra những luật lịnh thuận tiện cho phần cai trị mà đẩy cái khó cho hạ tầng, dụng oai quyền cấp trên mà không xét đến khó khăn cấp dưới khi ra công văn ấy là làm cho thất nhân tâm. Do vậy Pháp Chánh Truyền buộc chức sắc phải triệt để tuân theo tinh thần con một cha, anh lớn lo cho em nhỏ ấy là triệt cái mầm tự chuyên của thượng tầng. Chức sắc mà làm đúng với Pháp Chánh Truyền thì Hội Thánh Em tuân phục. Hội Thánh Em mà làm đúng với Pháp Chánh Truyền là gương sáng cho Tín Đồ noi theo; ấy là diện thể thiên hành hóa.

Hành đạo mà không truyền bá pháp luật chơn truyền, không thân cận để giáo hóa đàn em, để cho đồng đạo sai phạm rồi mới áp dụng pháp luật để trừng răn để tỏ ra cái oai quyền của cá nhân ấy là dụng pháp luật đạo để hành hình nên sẽ thất nhân tâm. Khi đã thất nhân tâm thì mọi việc đều khó.

Trong Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống (đêm 22-03-Kỷ-Sửu (19-04-1949) Đức Hộ Pháp kể lại cuộc chiến của Kim Quang Sứ với Đức Quyền Giáo Tông Lý Ngưng Dương hai bên đánh nhau mù mịt dai dẳng, Đức Hộ Pháp lược trận mà ngũ gục ba lần vẫn chưa kết thúc. Lần sau cùng Ngài lấy bửu pháp Kim Tiên vẽ một vòng, khi đó Đức Quyền Giáo Tông đánh một gậy thì Kim Quang Sứ hóa hào quang như lọ nồi bay mất.

Ta biết rằng Cửu Trùng Đài lo về giáo hóa, Hiệp Thiên Đài lo về bảo thủ pháp luật chơn truyền. Đức Quyền Giáo Tông (Cửu Trùng Đài) phải nhờ vào sự hỗ trợ của Đức Hộ Pháp (Hiệp Thiên Đài) dụng bửu pháp Kim Tiên vẽ một vòng là đưa mọi việc vào khuôn khổ pháp luật để xét. Khi đã đưa vào pháp luật là có sự hỗ trợ của pháp luật nên chỉ một gậy là kết thúc được cục diện.

Người hành đạo nếu chỉ giáo hóa về đạo lý mà không chú ý đến giáo hóa về pháp luật thì sẽ không có kết quả tốt, câu chuyện giáo hóa đạo lý lan rộng mãi đến buồn chán mà không giải quyết được cục diện. Giáo hóa đạo lý phải đưa vào khuôn khổ pháp luật đạo, phải nhờ pháp luật hỗ trợ thì mới có kết quả hữu ích. Đạo lý là căn cứ là cơ sở để tạo ra pháp luật; pháp luật là kết tinh của đạo lý. Đạo lý như mở bài, thân bài còn pháp luật chính là kết luận của vấn đề.

Ngược lại khi hướng dẫn về pháp luật cũng nên thêm phần giáo lý, nghi lễ để tạo sự hài hòa giữa pháp lý và tình cảm hầu người đạo tự giác tự nguyện thi hành. Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Quyển 2, bài sau cùng Đức Lý Giáo Tông có dạy:... hành pháp thì dễ, hành hình thì khó, theo đó thì hành đúng pháp để tạo sự tâm phục, khẩu phục tạo sự đắc nhân tâm đi đến thuận hòa hơn là chờ đến khi vi phạm rồi dùng pháp luật để sửa trị e rằng lòng người bất phục và thất nhân tâm.

Tóm lại: Nhân sự hành đạo vận dụng hài hòa đạo lý, lễ nghi, tổ chức và pháp luật chính là con đường trung dung đại đạo. Không theo nhơn tình mà bỏ pháp luật, không đem pháp luật để bóp chết nhơn tình, thu phục nhân tâm mà vẫn đúng với pháp luật chơn truyền khi hành đạo. Đó là trung dung đại đạo.

BỐI CẢNH BÀI DIỄN VĂN.

/- Năm 1930 lập ra Sáu Đạo Nghị Định, ấn định quyền hành chức sắc trong hành chánh, lập ra các cấp hành chánh.

/- Đức Lý Giáo Tông ban quyền Giáo Tông phần xác cho Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt (Đạo Nghị Định thứ hai).

/- Ban Hành Pháp Chánh Truyền Chú Giải tháng 4-1931.

/- Hội Nhơn Sanh nhóm lần đầu tiên tháng 11-1931.

/- Đức Chí Tôn dạy về ý nghĩa của Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh, tháng 12-1931.

/- Đức Hộ Pháp đọc bài diễn văn trên đây vào ngày 15 - 8 - Quí Dậu (dl 4 - 10 - 1933)

/- Đàn cơ ngày 12-2-1933 (29-12-Quí Dậu) tại Phạm Môn, Tây Ninh dạy về sự trở pháp và chuyển pháp.

/- Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo có năm ẤT HỢI 1935

/- Các chi phái tách ra khỏi Tòa Thánh Tây Ninh và một số chức sắc Hiệp Thiên Đài cũng không trọn tin vào Quyền Chí Tôn tại thế trong cơ trở pháp và chuyển pháp.

 5/- Kết thúc cuộc họp lúc 22 giờ.

Viết tóm lược: Thư ký Nguyễn Hồng Phượng.

Công nhận vi bằng.

Ban Kiểm Soát Luật

CTS: Nguyễn Hữu Khanh

     Phó Ban Chấp Hành

CTS: Lương Thị Nở