CHƯƠNG 2
CHÂU THÀNH
SIEMREAP
Tám giờ hôm sau tôi mới dậy (giờ mới) (1) Mặt trời đã nhuộm vàng
từng khoảng trên rặng cây ở bờ sông, nhưng trời vẫn còn lạnh y như tháng mười
ngoài Bắc. Đi thăm cảnh Đế Thiên Đế Thích thì mùa nầy là tiện nhất, vì ba bốn
tháng sau thì ở đây nóng lắm, rồi tới mùa mưa luôn sáu tháng.
Ăn sáng xong, anh H đưa tôi đi coi thành phố.
Chúng tôi qua chiếc cầu gỗ hồi đêm rồi đi theo bờ sông, trên một
đường tráng nhựa. Một bên là các công sở: toà Công sứ, sở Bưu điện, sở Kiểm lâm…,
sở nào cũng có vườn rộng ở chung quanh, giàn hoa ở trước mặt. Những giàn hoa đó
bằng bê tông, sơ sài nhưng lịch sự, coi xa như những hàng cửa kết bằng bông
xanh đỏ trên trên một dãy dài hai ba trăm thước. Một bên nữa là một lối đi trồng
hoa nằm theo bờ sông. Sông hẹp, bờ cao, mùa này cạn, uốn khúc dưới một hàng bốn
chiếc cầu gỗ cong cong, xinh xinh.
Hai hàng cây cao kết thành một cửa tò vò trên đầu du khách du lịch,
thả xuống những chùm hoa đỏ và tím. Những màu đó cùng với màu nghệ chiếc cà sa
của vài ông “lục”, (2) màu chàm và màu lá xoài trên những tấm xiêm của các cô gái
Miên, vẽ thành một bức tranh sặc sỡ tôi chưa từng thấy.
Tôi bâng khuâng nhớ cảnh Bắc trong tiếng tu hú và tiếng chim cu đua
nhau hót trên cành; tôi tưởng tượng cảnh đồi núi Sơn Tây trong tiếng thông rì rào
ở cuối đường; tôi rùng rợn nghe tiếng xoang xoảng của xích đồng buộc chân một bọn
tù đương làm cỏ bên bờ sông. Và chìm trong tiếng nhạc lạ lùng đó có tiếng thảnh
thót, đều đều, bất tuyệt, nhịp một, tiếng của những giọt nước trong vắt chầm chậm
từ trên guồng nhỏ xuống.
Những guồng đó – thứ guồng dùng ở Quảng Nam – y như những bánh
xe, trục kính không không dưới bốn thước, đặt ngay mí nước, cách nhau ba bốn chục
bước, thung dung quay suốt ngày đêm, nhẹ nhàng gạn từng giọt nước pha lê vào những
máng nước dài đưa vào vườn. Nó có vẻ nhàn hạ làm sao! Tôi có cảm giác như người
Miên dùng nó không phải để lấy nước mà để đo thời gian, để nhắc khách du lịch rằng
thời gian ở đây tuy vẫn trôi nhưng từ từ trôi, không việc gì mà phải vội! Phải
bỏ cái tật hấp tấp, cái gì cũng phải cho nhanh, của thế kỷ này đi gột cho hết bùn
phồn hoa trên bờ con Stung này đi, cho tâm hồn được trong trẻo như những giọt nước
nhỏ ở những máng kia, rồi hãy thủng thẳng bước vào cảnh đầy bí mật, đầy huyền ảo,
vô cùng hùng vĩ, vô cùng lãng mạn của miền Đế Thiên Đế Thích.
Những guồng đó, mà giá ai đặt sẽ ngón tay vào cũng đủ làm cho ngừng
lại, uể oải không kém gì dòng nước lờ đờ. Người ta phải đắp đập trên ba phần tư
lòng rạch, dồn nước vào một lối rộng chừng hai thức để bắt nó phải chảy, đừng lưu
luyến với cảnh hoang tàn của Đế Thiên mà nó vừa rời được vài cây số.
Con đường tráng nhựa nằm trên bờ sông ấy dài hơn ngàn thước, bắt
đầu từ chiếc cầu đúc mà chiếc xe hơi hồi hôm chạy qua cho tới khỏi chợ một chút.
Có dăm ba đường nữa chạy ngang qua, mát và sạch. Khu ấy là khu công sở. Còn khu
thương mại là khu quanh chợ. Chợ bẩn và tối, già nữa của Hoa kiều, một phần của
người Miên, một phần nhỏ của Việt kiều. Có một rạp Miên, vài hàng cơm Tây và Tàu.
Nhà hàng Grand Hôtel cất ở đầu châu thành, trước một sân thể thao, bên cạnh một
vườn thú tiêu điều gồm vài chuồng khỉ và chuồng chim.
Đó là bên đây sông. Bên kia sông cũng có một một con đường nằm
theo bờ sông, vài công sở và nhiều nhà sàn bẩn thỉu, tối tăm của người Miên. Bếp
của họ thường đặt phía trước nhà, ngay dưới mái hiên. Họ ăn cũng tại đó.
Coi qua thành phố rồi, tôi lại sở Công chính có chút việc. Ở đó
tôi gặp hai người bạn đồng nghiệp nữa, anh Th. người Vinh, đã làm việc ở Lào và
anh T. quê quán ở Hà Nội.
Tôi rủ họ đi coi Đế Thiên Đế Thích. Họ cũng nói:
- Lại đây được non một năm, chúng tôi đã đi coi sáu bảy lần rồi,
nhưng chưa lần nào đi hết một vòng lớn, vì gần đây thường có cướp. Mới rồi, một
bọn mười tên Miên có súng, phá một kho của một công ty thầu khoán. Nhưng lần này
thì chúng ta cứ đi. Cho chúng lột áo là cùng chớ gì. Hẹn sáng chủ nhật 24-1.
Anh T. lấy bản đồ chỉ đường đi chỉ cho tôi coi: vòng nhỏ hai mươi
cây số, vòng lớn ba mươi cây số. Chúng tôi sẽ hợp hai vòng làm một, đi làm một
lần. Vì ba phần tư vòng nhỏ nằm đè lên vòng lớn, cho nên vòng hổn hợp của chúng
ta chỉ dài khoảng bốn chục cây số thôi. (Coi bản đồ)
Chú thích:
(1) Đồng hồ để sớm hơn giờ thực một giờ
(2) Tiếng Miên nghĩa là ông, để chỉ các hoà thượng hoặc các người
giàu sang
ĐỀN BANTEAI SREY (Thành trì
của phụ nữ):
Anh T. cầm cây thước đo ngược lên phía trên vài phân rồi nói tiếp:-
Nhưng cái tuyệt mỹ không phải ở đấy (ở Đế Thiên Đế Thích) mà ở đây, ở Banteai
Srey. Chỗ này có một ngôi đền ngủ ở giữa rừng, không cao lớn bằng Angkor Vat,
nhưng chạm trổ rất công phu. Không một phiến đá nào của ngôi đền ấy mà không chạm.
Hình rất đẹp, nét rất sắc, sắc hơn chạm vào gỗ. Năm ngoái tôi được lên đấy với
một ông giáo sư và một nhà điêu khắc. Ông này khen rằng hình người và súc vật
chạm rất hợp với khoa giải phẩu, không chê vào đâu được. Từ bắp thịt tới đường
gân đều đúng vị trí. Có một hình sư tử chỉ lớn bằng đồng bạc mà thấy rõ được vẻ
sợ hãi hiện trên nét mặt nó khi một vị thần lay chuyển trái đất. Nghệ sĩ nào tạo
được công trình ấy đã có một cặp mắt rất tinh và làm cho đền Banteai Srey có giá
trị của một viên ngọc khổng lồ.
Đền xây ở cuối thế kỷ thứ X, dưới triều vua Jayavarman V, sau bị
bỏ hoang giữa một khu rừng rậm mãi đến năm 1914 một người Pháp mới tìm ra. Sau đó,
nhiều kẻ ăn cắp những phiến đá chạm trổ để đem bán, gây ra một vụ kiện sôi nổi ở
Nam Vang. Năm 1924, trường Viễn đông bác cổ (École Francaise d’Extrême Orient)
dựng lại bằng những vật liệu cũ, theo bản đồ cũ, và chận lại được sự phá phách
của thời gian và của loài người.
Anh thấy biên giới mới không? (1) Một đường thẳng nằm ngang trên
đất Miên, cách chổ mình đứng đây mười hai cây số đường, chạy theo vĩ tuyến 15 gơ
rat, bổng bỏ nó, men con sông nhỏ này, ôm lấy đền Banteai Srey rồi mượn con đường
mòn nầy để trở về vĩ tuyến 15 rồi thẳng tiến qua sông Cữu Long. Cái mũi nhọn bất
thường ấy đủ cho anh thấy giá trị của đền Banteai Srey mà không một người Ấn Độ
nào qua đây không đi coi, lại còn ghen với người Miên, nhận làm công trình của
tổ tiên của họ nữa.
Đi coi Banteai Srey, ta còn thấy một cảnh cảm kích ta rất mạnh,
cảnh một cái hào rộng chừng ba thước, dài hàng trăm cây số, đào thẳng băng giữa
một khu rừng rậm rạp, âm u, mênh mông. Hào đó tức biên giới mới, nằm theo vĩ
tuyến thứ 15. Muốn đi, phải xin phép ở Pradak cách Siem Reap non hai chục cây số.
Có giấy phép rồi, anh sẽ được ông quận trưởng sở tại cho vài tên lính đi hộ tống
vì đường thường có cướp”.
Ở sở Công chính ra, mặt trời gần đứng bóng, nắng chang chang, không
có một ngọn gió. Hai bên đường là ruộng, chân rạ cháy khô. Nắng ở đây gay gắt hơn
ở Sài Gòn nhiều.
Chú thích:
(1) Trong chiến tranh giữa Thái và Pháp năm 1941, Nhật ủng hộ Thái,
ép Pháp phải cắt đất Miên cho Thái. Năm 1946, đồng minh thắng, Thái trả lại đất
cho Miên.
HAI BÊN BỜ SÔNG SIEM REAP
Chiều hôm đó, tôi ngược sông Siemreap độ hai cây số. Khỏi cầu đúc,
vườn tược càng sầm uất, guồng nước càng nhiều, đặt cả hai bên bờ. Cảnh y như ở
miền Lái Thiêu: cũng đủ những cây trái như xoài, bưởi, quít, mận, mãng cầu… cũng
những đường mương nho nhỏ chằng chịt trong vườn, cũng mùi hương cau thoang thoảng
trong không khí. Một ngôi chùa Việt thấp, rộng, ẩn hiện sau hai hàng cau, trong
một khu vườn trồng bông và rau, đối diện ngôi nhà thờ cao, ngạo nghễ nhưng cục
mịch và một ngôi chùa Miên rụt rè trong đám xoài me ở phía sau.
Đi quá lên một chút nữa là sở Bảo tồn Đế Thiên (Conservation d’Angkor)
hoang vắng, không bóng người ra vào. Vì chiến tranh nên khách du lịch rất ít. Mỗi
chuyến xe ở Kompong lên chỉ có bốn, năm người ngoạn cảnh, mặc dầu mùa này là mùa
du lịch. Trước đây ba bốn năm, nhiều khách phương xa tới cho nên chung quanh chợ
Siemreap và ở trong sân sở này, xe hơi thường chen chúc nhau đậu. Tôi vào hỏi
mua cuốn Guide Groslier mà không có, đành mượn của anh T.
HÁT MIÊN
Tối hôm đó, vợ chồng anh H. rủ tôi đi coi hát Miên. Tới rạp lúc
tám giờ. Đèn đã sáng, trống đã vang mà không có người lởn vởn ở ngoài.
Rạp vắng tanh, ghế còn chất ngổn ngang trong một góc. Tôi ra ngoài
hỏi người Miên bán giấy:
- Mấy giờ hát?
- Tám giờ.
- Tám giờ mười rồi.
- Tám giờ hát.
Chúng tôi đi vòng lại chợ một lúc, tám giờ rưỡi trở lại, vẫn chưa
thấy bóng một khán giả. Chín giờ mới có người lại mua giấy. Hạng nhất 0đ,50.
Một lúc sau, người Miên lục tục kéo nhau vào từng bọn yên lặng
như những bóng và ngồi thu cả vào trong một góc ở cuối rạp, cặp mắt long lanh
trong bóng tối, dữ tợn như đang rình một kẻ thù. Họ khạc nhổ tứ phía.
Tôi nhớ lại hồi trước có người bảo:
- Một số tân học của họ cũng ăn bốc, bốc thịt và canh cũng bốc. Ông
luật sư Miên ở cạnh nhà tôi cũng thường theo tục đó.
Tôi nhìn lên tường: tranh vẽ ngay vào tường, nét rất khéo nhưng đã
mờ dưới một lớp vết bẩn kinh niên. Những tấm màn trên sân khấu còn bẩn hơn nữa.
Khi màn cuốn, non hai chục đào kép xếp hàng theo hình bán nguyệt,
đào một bên, kép một bên, cuối đầu chào khán giả, hát bài Madelon rồi mới bắt đầu
diễn. Nghệ thuật của họ cũng phảng phất như nghệ thuật hát bộ của ta. Quần áo của
họ cũng như quần áo thường của người Miên nhưng hào nhoáng hơn, tuy không sạch
hơn. Nhiều đồ rách, vá.
Tôi không kiên tâm ngồi đợi cho hết tuồng để coi họ múa, mặc dù
trước khi đi, tôi nhất định thế nào cũng xem vài vũ khúc của Miên. Cứ nhìn
trong các tấm ảnh của sở Du lịch mà tưởng tượng lại hơn.
Ra khỏi rạp tôi hỏi anh H:
- Nghe nói từ khi vua Shihanout lên ngôi, đuổi hết những “mái”
(vũ nữ) ở trong cung ra, bọn đó đi các tỉnh kiếm ăn, có lên đây không?
- Có, nhưng chẳng hơn gì bọn này.
TRONG MỘT CHÙA MIÊN
Còn sớm, chúng tôi chưa muốn về nhà, lững thững qua một chiếc cầu
gỗ ở ngang chợ, rẽ vào một ngôi chùa Miên.
Chùa này rất rộng, có hai lớp học, một lớp dạy trẻ em, một lớp dạy
cho thầy sãi, đều bài trí theo Âu.
Ở giữa sân có một ngôi nhà quàn quan tài. Một người Miên lai
Trung Hoa, nhờ buôn bán có bạc triệu, bỏ ra mấy vạn đồng làm chay cho vợ, bố thí
và cúng chùa để xin phép cất nhà quàn đó. Nhà bằng gỗ lợp ngói, mỗi chiều độ năm
thước. Ông lục nói quàn tới ba năm. Tuy không khí không tanh hôi mà tôi tự nhiên
cũng muốn nín thở. Bên cạnh nhà quàn, vài người thợ Miên đương lấy mũi dao nhọn
gọt những miếng đất thó để làm khuông đúc những phiến xi-măng xây tháp. Miếng đất
độ năm tấc vuông mà họ gọt năm ngày chưa xong. Thấy vậy rồi ta mới tưởng tượng
nổi công phu khắc đá của người Miên bảy tám thế kỷ trước để tạo nên Đế Thiên Đế
Thích, là vĩ đại đến bực nào.
ĐẬP BARAI
Tám giờ sáng hôm sau, xe hơi sở Công chánh lại đón tôi đi coi công
việc xây đập ở Barai. Xe chạy qua cửa chính đền Angkor Vat vào lúc mặt trời ấm áp
và rực rỡ mới nhô lên khỏi khu rừng âm u ở bên tay phải. Nhìn năm ngọn tháp như
năm búp sen hiện sau một bức thành rêu phong, trên nền trời ửng đỏ, giữa đám cây
xanh, sau một làn sương lam còn quyến luyến với làn nước phẳng lặng trên hồ, tôi
có cảm giác rằng sau bức thành đó, dưới những búp sen kia, là cả một thế giới
thần tiên, bí mật. Xe chạy vòng quanh đền Bayon, dưới nụ cười hiền từ của phật
Avalokitecvara rồi rẽ vào một đường hẹp ngập cát, ngừng lại tại chỗ xây đập.
Tôi đi coi mấy gian nhà lá cất cho lao công và lính Miên ở, một
chòi canh dựng trên cành cây, rồi xuống xem đập ở trên dòng sông Siemreap. Sông
ở đây như một cái lạch nhỏ, rộng chừng mười lăm thước, uốn khúc giữa một khu rừng
cao. Có chổ nông lội qua được. Nước trong xanh, trông thấy cát ở dưới. Đập sẽ nâng
cao mặt nước lên bốn thước. Ở phía trên đập vài chục thước, tôi thấy vết một
con kinh cạn.
Viên kỹ sư bảo tôi:
- Tám trăm năm trước, người Miên đã biết công việc dẫn thuỷ rồi.
Chính họ đã đào kinh này để đem nước vào hồ Barai tây, chứa ở đó rồi dẫn nó vào
ruộng. Chúng tôi cũng theo vết họ, dùng ngay kinh đó, chỉ sửa sang lại một chút
thôi. Hình như xưa kia, kinh này đáy rộng bảy chục thước, bây giờ chỉ còn non mười
thước. Bấy nhiêu cũng đủ. Nhưng hai bờ kinh vì bỏ lâu, chỗ ra chỗ vào không đều,
nay phải sửa lại. Tôi còn nghĩ rằng chính chỗ bây giờ xây đập là cái nền của cái
đập hồi xưa.
Đập chúng tôi xây có đặc điểm này là tuy ngăn nước lại, nhưng không
ngăn hết, vẫn cho một phần nước chảy qua được, nếu không thì châu thành
Siem-reap (°) sẽ mất một con sông và nhiều vườn rất đẹp.
Công việc ấy không khó. Khó là kiếm nhân công. Người Miên làm việc
không như chúng mình. Ông coi kìa, một gánh đất không nặng mười ký-lô mà họ gánh
uể oải như vậy đó. Họ có tánh ung dung của những nhà hiền triết. Phải chìu chuộng
họ lắm, họ mới chịu làm giùm cho đấy. Vì vậy ít người đấu giá mà người đấu rẻ
nhất cũng bỏ thầu tăng lên 97%.
- Chín mươi bảy phần trăm? Một nguyên do nữa có phải là sự bất an
của miền nầy không?
- Cũng có lẽ. Nhưng người ta cứ đồn nhau là có cướp bóc, sự thực
không có gì cả… Đập này xây dựng xong, mực nước hồ Barai tây sẽ nâng cao được bốn
thước, sẽ chứa đủ nước cho 15.000 mẫu ruộng. Phí tổn sẽ vào khoảng 600.000$.
Chiều nay ông muốn đi coi hồ đó, tôi sẽ bảo tài xế đưa ông đi.
Tất nhiên là tôi không từ chối.
Chú thích:
(°) Tôi cố gắng chép đúng theo tài liệu nguồn mặc dù có sự thiếu
nhất quán: Siem-reap, Siem reap, Siemreap, SIÊM REAP. Địa danh Banteai Srey có
chỗ ghi Banteai Srei. Ký hiệu đơn vị đồng cũng vậy: lúc ghi đ lúc ghi $.
HỒ BARAI TÂY
Ba giờ chiều xe lại đón anh H. và tôi đi. Ra khỏi thành phố, đi
lên phía Sisophon độ mười cây số, qua những xóm làng tịch mịch dưới bóng dừa và
cau rồi rẽ vào một đường nhỏ dài vài trăm thước ở bên tay phải.
Một làn nước trong và lặng, vuông vắn, chung quanh có đê cao, cây
rậm. Trên bờ cất một ngôi nhà sàn trước mặt bày một cái bàn và bốn chiếc ghế đá
để du khách nghỉ ngơi trước khi tắm.
Hồ rộng một chiều 2.000 thước, một chiều 8.000 thước. Bốn phía là
bốn đê cao trên mười thước, mặt đê rộng năm mươi thước.
Có hai hồ như vậy. Hồ này ở phía tây nên gọi là Barai tây. Barai
đông hiện nay đã cạn và thành ruộng.
Giữa hồ nhô lên một ngôi đền nhỏ, đền Mébon, cũng một kiểu với đền
Baphoun, coi kiến trúc đền đó, các nhà khảo cổ đoán rằng hồ này đào vào hồi thế
kỷ XI ở giữa một đồng ruộng. Có lẽ thời đó hồ thông với Biển hồ bằng một kinh lớn,
và thuyền của Hoàng gia thường đậu ở đây. Ngày nay hồ là một chỗ rất tiện cho
thuỷ phi cơ đáp xuống.