Trang

Thứ Ba, 30 tháng 5, 2017

2395. VÙNG THOẠI KHÍ LÀ GÌ?

VÙNG THOẠI KHÍ.
“Bầu không khí đối thoại”.
Ghi chép: Dương Xuân Lương.
Trong một vài cuộc hội luận về giáo lý Đạo Cao Đài gần đây một số bạn trẻ có nêu lên vấn đề Vùng thoại khí là gì? Tôi rất thích thú với các ý kiến đóng góp nên xin ghi chép lại để cống hiến quí vị quan tâm.
Trước đây chúng tôi có ghi chép rằng giáo lý Đạo Cao Đài có nhiều phương diện: Bách khoa xã hội học (có thể chứng minh được), huyền linh học (không thể chứng minh được nhưng có thể lý hội được), vũ trụ siêu hình học (có thể chứng minh được khi khoa học kỷ thuật phát triển và làm sáng tỏ vấn đề; nghĩa là sẽ rõ ràng trong tương lai)….
Bài ghi chép nầy nhằm tìm hiểu ý nghĩa 04 câu đầu bài kinh Đệ Cửu Cửu về phương diện xã hội học.
Vùng thoại khí bát hồn vận chuyển,
Tạo hóa thiên sanh biến vô cùng.
Hội Bàn Đào Diêu Trì Cung,
Phục sinh đào hạnh rượu nồng thưởng ban….
1/- Khái niệm về vùng thoại khí.
Vùng thoại khí là gì?
Xin thưa đó là bầu không khí đối thoại, hội luận, thảo luận, trao đổi giữa người và người, cá nhân với đoàn thể hay đoàn thể nầy với đoàn thể khác để tháo gỡ những bất đồng, hóa giải những điều phân biệt, phát triển những điểm chung để xây dựng con người mới, xã hội mới….
Hiểu vậy thì từ cá nhân cho đến các đơn vị hành chánh đạo như Ấp Đạo, Hương Đạo, Tộc Đạo… cho đến các cơ quan trung ương (Cửu Viện, Hàn Lâm Viện…) khi trình bày một đề tài, một giải pháp, vấn đề nào đó đều phải trãi qua vùng thoại khí.
Trong đạo học thoại khí còn một ẩn ý sâu xa là người hội nhập với các Đấng thiêng liêng (Hiệp Thiên) để được đối thoại, hướng dẫn, rèn luyện… thành con người mới… nghĩa là con người đối thoại với thế giới hư linh. Chính nhờ vào thoại khí mà các vị có những phát kiến phi thường.
Thí dụ như Ngài Phạm Công Tắc được Đức Chí Tôn trục chơn thần và Hộ Pháp Di Đà giáng linh để thi hành nhiệm vụ Hộ Pháp. Ngài Jésus được thánh linh nhập vào để thành ra Đức Chúa Jésus Christ hay Ngài Sĩ Đạt Ta có được kiến thức phi thường để cung cấp cho nhân loại để được tôn vinh là Phật…..
Các Ngài ấy cùng được sinh ra theo qui luật âm dương, nhưng nhờ ý chí, căn duyên nên hiệp nhập được với cõi hư linh mà có những cuộc thoại khí và sở hửu những kiến thức phi thường để cung ứng cho nhân loại. Nhân loại phải cầu học mà xây dựng cho bản thân, gia đình và xã hội theo qui luật cung cầu (không phải cầu cung).
Về xã hội danh họa Jan Matejko tạo ra  tác phẩm Nhà thiên văn học Copernicus: Đối thoại với Thượng đế... là một ví dụ điển hình cho cho việc con người đối thoại với cõi hư linh.




(Ảnh từ internet: Nhà thiên văn học Copernicus: Đối thoại với Thượng đế..)
Đến đây xin trả lời vấn nạn: Người được hội nhập với thiêng liêng (Hiệp Thiên) bằng cách nào? Xin thưa rằng tùy theo thời kỳ, tùy vào trình độ văn minh (từ thuở sơ khai "săn bắt hái lượm", rồi tới văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, điện và điện tử và bây giờ là văn minh tâm linh) mà có các hình thức hội nhâp. Khi còn sơ khai thì xin keo âm dương, tiến lên nửa thì xin xâm, chiêm nghiệm qua Kinh Dịch, khi văn tự đã phổ biến thì cầu cơ, chấp bút... Dù ở vào thời kỳ văn minh nào thì với những người đã tinh tấn sự hội nhập có thể đến bằng sự cảm nhận qua âm thanh, huyền ảnh...  
Diễn tiến về sự hội nhập (đối thoại, thoại khí) của con người với thiêng liêng được thể hiện qua thể pháp trên vòm Cung Đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh.
Ảnh 2. Hình trên vòm tại Cung Đạo Tòa Thánh Tây Ninh.
Bát hồn là gì? Đó là vật chất hồn, thảo mộc hồn, thú cầm hồn, nhơn hồn, thần hồn, thánh hồn, tiên hồn và phật hồn. Theo Pháp Chánh Truyền chú giải Thiên hồn sanh ra bát hồn. Thiên hồn là Đấng tự hữu và hằng hữu (Trời).
Bát hồn vận chuyển như thế nào?
Vận chuyển theo hai vòng tiểu hồi và đại hồi.
Từ vật chất đến nhơn hồn thuộc vòng tiểu hồi nghĩa là bắt buộc phải đi theo thứ tự không được nhảy cấp. Qui luật tiến hóa của tiểu hồi là tiệm tiến (như qui luật lượng chất trong duy vật biện chứng pháp).
Từ nhơn hồn trở lên thuộc về đại hồi. Đại hồi có 02 trường hợp: Tiệm tiến từ nhơn hồn lên thần hồn rồi thánh hồn đến tiên hồn và phật hồn. Trường hợp thứ nhì là nhảy cấp từ Nhơn hồn bỏ qua một hay hai cấp... để lên cấp trên tùy vào công nghiệp của chính mổi kiếp sanh khi hiện sinh trên thế gian. Đại hồi ở đẳng cấp cao hơn tiểu hồi nên ngoài luật luật tiệm tiến của tiểu hồi thì đại hồi có thêm quyền nhảy cấp. Nó ví như người học đại học thì có thêm bài vở phải làm nhưng những qui tắc, bài vở ở cấp dưới vẫn phải tôn trọng.
Bát hồn vận chuyển để tạo ra cái gì?
Phật Mẫu Chơn Kinh câu 7 & 8:
Càn Khôn sản xuất hữu hình,
Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh...
Theo đó bát hồn vận chuyển để hóa thành chúng sanh. Đây là căn cội để hiểu chúng sanh có 02 nghĩa. Nghĩa thứ nhất chúng sanh bao trùm cả bát phẩm chơn hồn. Nghĩa thứ hai: chúng sanh là toàn cả nhân loại chớ không riêng một sắc dân nào (trong bài nầy thường dùng chữ chúng sanh theo nghĩa toàn cả nhân loại).
Bát hồn vốn xuất từ Thiên hồn mà hiện sinh nên nó hằng hoài vọng nơi nó xuất thân mà tìm về. Theo khoa học cây cối có khuynh hướng vươn cao và hướng ra ánh sáng để tồn tại và phát triễn. Theo đạo học núi non được tạo bởi đất đá, lớp nầy chồng lên lớp nọ (vật chất hồn) là để tìm Trời. Cây cối có khuynh hướng vươn cao cũng để tìm Trời là Đấng đã tạo ra nó... nghĩa là các đẳng chơn hồn dù ở cấp nào cũng tìm về cội nguồn. Đạo học không trái với khoa học mà lý giải sâu thêm về cội nguồn và tìm về nguồn...
Tại sao đạo phục của người tín đồ Cao Đài dùng màu trắng? Thiễn nghĩ đó là để nhắc rằng khi bát phẩm chơn hồn xuất ra từ Bát Quái Đài đều trinh trắng (thể hiện qua 08 con rồng trắng từ tâm hướng ra ngoài); khi lâm trần thì chịu ô trược để tấn hóa. Trong cảnh phù ba muốn trở về với ngôi xưa vị củ thì phải giử cho thân xác và chơn thần được trong trắng, tinh anh.

Ảnh 3: Số 1 & 2: Hai trong tám con rồng trắng xuất phát từ Bát Quái Đài  
Câu kinh: Vùng thoại khí bát hồn vận chuyển bao hàm ý nghĩa rằng khi đối thoại thì phải nắm vững qui luật của bát hồn. Muốn vận động để đối tượng thay đổi cho tốt hơn (vận chuyển: vận động để chuyển hóa trong nghĩa luân, chuyển, hóa, sanh theo Di Lặc Chơn Kinh) phải tác động đến phần hồn của họ. Nghĩa là phải lay động lương tâm của đối tượng. Khi lương tâm của họ không còn bị che mờ bởi những hôn ám cõi trần thì họ đã sang bờ giác (đáo bĩ ngạn hay giác ngộ) và tự họ bước đi cho đến cảnh giới cuối cùng (liễu ngộ).
Vận động bao gồm một chuỗi hành động được sắp xếp để tác động đến đối tượng với ý muốn thay đổi hiện trạng.
Tác động đến lương tâm đối tượng có thể dùng cách đốn ngộ hay tiệm ngộ. 
Đốn ngộ là dùng lời nói hay hành động giúp cho đối tượng giác ngộ (hiểu được nan đề) một cách rất bất ngờ.
Tiệm ngộ cũng dùng lời nói hay hành động giúp cho đối tượng đi từ từng bài toán nhỏ (tuần tự nhi tiến) và khi giải hết những bài toán nhỏ là đã xong bài toán lớn (sẽ đạt đến sự giác ngộ).
Dùng đốn ngộ hay tiệm ngộ là tùy vào căn cơ của từng đối tượng.
Tại sao Đức Hộ Pháp, Đức Chúa Jésu Christ, Đức Phật Thích Ca làm thay đổi được nhiều đối tượng theo ý các ngài? 
Thiễn nghĩ đó là do định vị được đối tượng ở vào diện nào, từ đó khơi sáng hay tác động đến lương tâm của họ (theo cách đốn ngộ hay tiệm ngộ).
Còn tiếp
2/- Câu 2: Tạo hóa thiên sanh biến vô cùng: