Theo BBT hiểu là VNCH bị bán đứng mới đúng.
50 năm Hải chiến Hoàng Sa:
'Việt Nam Cộng Hòa đã bị hy sinh'
·
Từ Hoa
Kỳ, Đại tá Carl Schuster lý giải vì sao Việt Nam Cộng Hòa bại trận trong Hải
chiến Hoàng Sa 1974 và bài học lịch sử rút ra từ biến cố này.
“Tôi đã nhận thấy những dấu hiệu chắc
chắn đầu tiên cho thấy nước Mỹ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa,” Đại tá Carl Schuster
chia sẻ trong cuộc trao đổi với BBC News Tiếng Việt trước thời điểm 50 năm Hải
chiến Hoàng Sa.
Ông Carl Schuster đã có 25 năm phục vụ
trong Hải quân Mỹ. Ông từng công tác trên các tàu chiến và từ năm 1980 chuyển
sang lĩnh vực tình báo hải quân, trong đó có vai trò chuyên viên phân tích hoạt
động của Hải quân Trung Quốc.
Vị trí cuối cùng mà ông đảm trách trước
khi rời quân ngũ vào năm 1999 là chủ nhiệm Phòng Tác chiến thuộc Trung tâm Tình
báo hỗn hợp Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương.
Thời gian còn là chuyên gia phân tích
tình báo, ông có thể tiếp cận các tài liệu được giải mật từ phía Mỹ.
Hiện ông đang giảng dạy quan hệ quốc tế,
lịch sử và nhân văn tại Đại học Hawaii Pacific.
Tháng 6/2017, ông có bài viết “Cuộc
chiến giành quần đảo Hoàng Sa” (Battle for Paracel Islands) gây chú ý trên tờ
Vietnam Magazine.
Hạm đội 7 không hành động
Trả lời BBC News Tiếng Việt, Đại tá
Schuster đã giải thích bối cảnh lịch sử xảy ra trận hải chiến khiến Việt Nam
mất quần đảo Hoàng Sa vào tay Trung Quốc.
Theo ông, cần phải nhắc đến cuộc Cách
mạng Văn hóa do Chủ tịch Mao Trạch Đông khởi xướng vào tháng 5/1966 và kết thúc
sau khi ông qua đời năm 1976.
Trung Quốc đã trải qua một thập kỷ hỗn
loạn với chiến dịch thanh trừng nhằm trừ khử các đối thủ chính trị của Mao
trong nội bộ Đảng Cộng sản.
Hải chiến Hoàng Sa xảy ra vào thời điểm
Cách mạng Văn hóa gần kết thúc và Đại tá Schuster đánh giá hải quân Trung Quốc
khi đó “hầu như không thể ra biển”.
“Cách mạng Văn hóa hầu như đã khiến
Trung Quốc đánh mất năng lực hậu cần. Do thiếu hụt phụ tùng, chỉ khoảng 10% số
tàu của họ có thể đi biển và đa số gặp các vấn đề về trang thiết bị. Mao chỉ có
thể dựa vào dân quân biển.”
“Đây là những nhóm bán quân sự, được bộ
phận quân huấn huấn luyện chút ít và có thể nhận lệnh từ Hải quân. Thời điểm
đó, lực lượng dân quân biển đã bắt đầu hoạt động quanh quần đảo Hoàng Sa,” ông
nói.
Ông đã nhắc lại việc Mỹ và Trung Quốc
“bắt tay để hy sinh” Việt Nam Cộng Hòa trong trận hải chiến như thế nào và ông
đánh giá Chủ tịch Mao Trạch Đông “hiểu lúc bấy giờ Mỹ không có ý chí chính trị
để bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa”.
“Khi tìm hiểu kỹ Hải chiến Hoàng Sa, tôi
nhận thấy những dấu hiệu chắc chắn đầu tiên cho thấy nước Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam
Cộng Hòa.”
“Các tàu chiến Nam Việt Nam đã gửi yêu
cầu trợ giúp đến Hạm đội 7. Nhưng Hạm đội 7 được lệnh không can dự gì với Trung
Quốc. Thế nên Hạm đội 7 đã từ chối.”
Theo thông tin từ Hạm đội 7, trong Chiến tranh
Việt Nam, hạm đội này thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu như điều máy bay không
kích, bắn yểm trợ, đổ bộ, tuần tra và tác chiến sử dụng mìn.
Sau Hiệp định Paris 1973, Hạm đội 7 thực
hiện các hoạt động chống mìn trên vùng biển gần bờ ở Bắc Việt.
“Không có sự hỗ trợ của Mỹ, quân đội
Việt Nam Cộng Hòa phải đánh cận chiến nhưng binh lính lại không được huấn luyện
tốt, kỹ năng tác xạ rất kém. Họ chịu tổn thất lớn và nhiều binh sĩ bỏ mạng. Nam
Việt Nam để mất nhóm đảo Lưỡi Liềm và nước Mỹ đã không phản đối,” ông nói với
BBC.
Có 74 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tử
trận khi Hải chiến Hoàng Sa nổ ra vào ngày 19/1/1974.
Ông Schuster đánh giá rằng nếu Hạm đội 7
có mặt thì tình hình đã khác. “Nhưng do đã hứa [với Trung Quốc], nước Mỹ chọn
đứng ngoài cuộc,” ông nói.
Vai trò của Kissinger
Đại tá Schuster cũng đề cập đến vai trò
của Henry Kissinger, người giữ chức Ngoại trưởng Mỹ giai đoạn 1973 - 1977 và Cố
vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống Richard Nixon từ năm 1969 đến tháng
11/1975.
Với vai trò Cố vấn An ninh Quốc gia và
Ngoại trưởng, ông này đã theo đuổi mạnh mẽ chính sách hòa hoãn (détente), giúp
làm tan băng quan hệ giữa Mỹ với Liên Xô và Trung Quốc.
Ngày 9/7/1971, Henry Kissinger đã gặp
Thủ tướng Trung Quốc Chu n Lai để sắp xếp chuyến viếng thăm lịch sử đến Bắc
Kinh của Tổng thống Richard Nixon vào tháng 2/1972.
Tài liệu giải mật của Bộ Ngoại giao Mỹ
về cuộc trao đổi giữa
ông Kissinger với Đại sứ Hàn Tự, Quyền Trưởng Văn phòng liên lạc Trung Quốc, có
ghi rõ đoạn này. Cuộc nói chuyện diễn ra tại Washington vào ngày 23/1/1974, tức
chỉ vài ngày sau Hải chiến Hoàng Sa.
“Nước Mỹ không ủng hộ Nam Việt Nam tuyên
bố chủ quyền đối với những đảo này. Tôi cũng muốn nói rõ điều đó,” Kissinger
trấn an Hàn Tự.
Phát biểu tại Thượng
đỉnh Chiến tranh Việt Nam tại Thư viện LBJ ở Austin, Texas vào
ngày 26/4/2016, ông Kissinger cũng nói Hoàng Sa không quan trọng bằng các vấn
đề khác vào thời điểm ấy.
Ông Kissinger đã trả lời như sau trước
câu hỏi từ một nhà báo VOA rằng có phải Hoa Kỳ đã đồng ý để Trung Quốc chiếm
Hoàng Sa vào năm 1974 hay không:
“Lập trường của Mỹ liên quan đến quần
đảo ấy là chúng tôi không giữ lập trường về chủ quyền đối với những đảo này.
Vào năm 1974, trong tâm điểm vụ Watergate và cuộc chiến ở Trung Đông, tôi có
thể nói rõ với quý vị là quần đảo Hoàng Sa không phải là ưu tiên trên hết trong
tâm trí chúng tôi. Nhưng không có thỏa thuận nào được ký mà trong đó chúng tôi
trao quyền cho Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa cả, người Trung Quốc
cũng chưa từng tuyên bố như vậy.”
Bình luận về vai trò của Kissinger, Đại
tá Schuster nói, “Chúng ta không biết được Kissinger đã đưa ra những đảm bảo gì
vì ông ấy không bao giờ thừa nhận. Kissinger nhận ra rằng Quốc hội Mỹ sẽ không
ủng hộ việc tiếp tục nỗ lực chiến tranh và tâm lý của dân Mỹ khi đó là hãy chấm
dứt tổn thất và thoát ra.”
“Tôi nghĩ Mao Trạch Đông nắm được điều
đó. Ông ta không phải là một nhà chiến lược quân sự giỏi nhưng ông ta hiểu lúc
bấy giờ Mỹ không có ý chí chính trị để bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa. Hãy nhớ rằng
Kissinger đã bỏ rơi Đài Loan bởi ông ấy nghĩ Mỹ cần một Trung Quốc mạnh để đối
phó với Liên Xô.”
“Và kết quả là chính quyền Nam Việt Nam
đã bị hy sinh cho mục tiêu lớn hơn của Kissinger, cho việc thiết lập một Trung
Quốc thịnh vượng và mạnh mẽ mà Kissinger cho rằng sẽ trở thành đồng minh của Mỹ
trong thế kỷ 20,” Đại tá Schuster nói.
Bài học lịch sử
Sau năm 1974, Hải chiến Hoàng Sa và vai
trò của quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong sự kiện này ít được đề cập trên các
kênh thông tin chính thống của nhà nước tại Việt Nam. Phải đến năm 2014, nhân
dịp kỷ niệm 40 năm, Hải chiến Hoàng sa mới được báo chí chính thống đề cập rầm
rộ.
Tiếp đó là sự kiện Trung Quốc đưa giàn
khoan Hải Dương 981 hoạt động trong vùng biển gần Hoàng Sa gây căng thẳng trầm
trọng với Việt Nam.
Lúc bấy giờ, các cuộc biểu tình phản đối
Trung Quốc đã nổ ra nhiều nơi, lớn nhất là tại Hà Nội và quanh TP HCM. Bạo loạn
tại một số khu công nghiệp ở tỉnh Bình Dương vào tháng 5/2014 đã gây thiệt
hại cho các công ty không chỉ của Trung Quốc mà còn của Đài Loan và Singapore.
Giới quan sát trong nước đánh giá rằng
Trung Quốc luôn chớp thời cơ tốt để hành động, như 19/1/1974 tấn công Hoàng Sa,
17/2/1979 tấn công biên giới phía bắc Việt Nam và 14/3/1988 tấn công cụm đá Gạc
Ma tại Trường Sa. Đấy là các thời điểm Việt Nam mất cảnh giác và suy yếu nhất.
Đây là một bài học quan trọng cho Việt Nam trước sự bành trướng ngày càng mạnh
mẽ của Bắc Kinh.
Về ý này, Đại tá Schuster gợi ý rằng để
đối phó, Việt Nam cần phải có càng nhiều đối tác càng tốt.
“Tôi nghĩ lý do Chủ tịch Tập Cận Bình
đưa ra nhiều lợi ích kinh tế cho Việt Nam trong chuyến thăm vừa qua là bởi ông
ấy lo ngại việc Mỹ cũng đưa ra giống như vậy cho Việt Nam.”
“Càng nhiều đối tác thì càng tốt. Đừng
bao giờ phụ thuộc vào một đối tác để làm đối trọng vì bạn không bao giờ biết nó
có thể biến mất lúc nào.”
“Nếu là lãnh đạo quốc gia, bạn có dám
đặt cược vận mệnh tương lai quốc gia mình vào một người nào đó không?”
Chuyên gia về an ninh quốc phòng này cho
rằng Ấn Độ sẽ là đối tác quan trọng cho Việt Nam trong công nghệ quốc phòng và
Nhật Bản cũng là “đồng minh tự nhiên”.
“Tôi nghĩ việc củng cố quan hệ với Ấn Độ
là điều mà Việt Nam có thể cân nhắc đưa vào bài toán. Công nghiệp quốc phòng Ấn
Độ rất phát triển.”
'Sau mùa hè 2025'
Về viễn cảnh nào cho tình hình Biển Đông
và những điểm nóng nào có thể bùng phát, Đại tá Carl Schuster nói với BBC rằng
ông Tập Cận Bình sẽ muốn chiến thắng trên Biển Đông mà không phải nổ phát súng
nào, đồng thời dự đoán nếu xảy ra sự kiện lớn nào đó thì phải sau mùa hè năm
2025.
“Tôi nghĩ Tập Cận Bình phải cân nhắc rất
kỹ về sức mạnh ý chí của nước Mỹ.
Có nhiều người Mỹ, tinh hoa chính trị và
doanh nhân, nghĩ là nước Mỹ nên thỏa hiệp với Trung Quốc bởi hai nền kinh tế đã
có sự gắn kết. Tôi nghĩ Tập Cận Bình coi điều đó là có lợi. Ông ta xem nỗ lực
dàn xếp của Mỹ với Trung Quốc là một điểm có thể khai thác.”
“Tập Cận Bình sẽ càng thể hiện rõ hơn ý
chí của mình. Nhưng tôi không nghĩ điều đó sẽ diễn ra trước cuộc bầu cử tổng
thống Mỹ 2024 vì có thể bất lợi cho Trung Quốc. Nhưng sau 2024, Tập sẽ có dịp
thử phản ứng của tân tổng thống và tân quốc hội. Nếu ông Joe Biden tái đắc cử
thì Tập Cận Bình sẽ tiếp tục lợi dụng điều mà ông ta xem là ‘điểm mù’ của
Biden, người tin rằng đối thoại là biện pháp tốt nhất để giải quyết mọi vấn đề.
Vấn đề là với những kẻ áp bức và độc tài, họ xem đối thoại là biểu hiện của yếu
đuối. Tôi nghĩ vấn đề lớn có xảy ra thì phải sau mùa hè năm 2025.”
“Năm 2027, theo tôi, cũng là một năm khó
khăn. Tập Cận Bình có thể muốn chiến thắng trên Biển Đông mà không phải nổ phát
súng nào.”
Năm 2027 là mốc thời gian mà các lãnh
đạo quân sự và tình báo Mỹ cho rằng Trung Quốc có thể xâm lược Đài Loan. Lý do
là khi đó quân đội Trung Quốc đã đủ sức mạnh sau quá trình hiện đại hóa.
Người ta cũng dùng khái niệm “luộc ếch”,
tức đun nóng từ từ, để mô tả cách mà Bắc Kinh thực hiện chiến lược Đài Loan.
Nói cách khác, Bắc Kinh chọn kế “bất chiến tự nhiên thành”, theo binh pháp Tôn
Tử, là không cần ra quân mà Đài Loan cuối cùng sẽ về theo Trung Quốc sau vài
chục năm chịu sức ép.
Về phía Mỹ, chuyên gia Schuster cho rằng
chính quyền sắp tới tại Washington phải “mạnh tay” hơn trước sự bành trướng của
Trung Quốc.
“Từ góc độ chính sách ngoại giao, hành
động mạnh, phòng vệ ngăn chặn bằng quân sự, hành động kinh tế và ngoại giao
mạnh, để Trung Quốc biết là phải trả giá thì sẽ khiến họ tính toán lại, còn nếu
chỉ có nói thôi thì Trung Quốc sẽ leo thang, sẽ đẩy và giật cho đến khi nào đạt
được mục đích thì thôi.”
“Nếu Mỹ để Trung Quốc bắt nạt
Philippines thì tiếp theo sẽ là Việt Nam, Indonesia và Malaysia… Khi con voi
chĩa vòi vào lều của bạn, nếu bạn chỉ vỗ nhẹ vào vòi thì sau đó nó sẽ chui hẳn
vào căn lều,” ông ví von.
50 năm Hải chiến Hoàng Sa:
'Việt Nam Cộng Hòa đã bị hy sinh'
·
Từ Hoa
Kỳ, Đại tá Carl Schuster lý giải vì sao Việt Nam Cộng Hòa bại trận trong Hải
chiến Hoàng Sa 1974 và bài học lịch sử rút ra từ biến cố này.
“Tôi đã nhận thấy những dấu hiệu chắc
chắn đầu tiên cho thấy nước Mỹ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa,” Đại tá Carl Schuster
chia sẻ trong cuộc trao đổi với BBC News Tiếng Việt trước thời điểm 50 năm Hải
chiến Hoàng Sa.
Ông Carl Schuster đã có 25 năm phục vụ
trong Hải quân Mỹ. Ông từng công tác trên các tàu chiến và từ năm 1980 chuyển
sang lĩnh vực tình báo hải quân, trong đó có vai trò chuyên viên phân tích hoạt
động của Hải quân Trung Quốc.
Vị trí cuối cùng mà ông đảm trách trước
khi rời quân ngũ vào năm 1999 là chủ nhiệm Phòng Tác chiến thuộc Trung tâm Tình
báo hỗn hợp Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương.
Thời gian còn là chuyên gia phân tích
tình báo, ông có thể tiếp cận các tài liệu được giải mật từ phía Mỹ.
Hiện ông đang giảng dạy quan hệ quốc tế,
lịch sử và nhân văn tại Đại học Hawaii Pacific.
Tháng 6/2017, ông có bài viết “Cuộc
chiến giành quần đảo Hoàng Sa” (Battle for Paracel Islands) gây chú ý trên tờ
Vietnam Magazine.
Hạm đội 7 không hành động
Trả lời BBC News Tiếng Việt, Đại tá
Schuster đã giải thích bối cảnh lịch sử xảy ra trận hải chiến khiến Việt Nam
mất quần đảo Hoàng Sa vào tay Trung Quốc.
Theo ông, cần phải nhắc đến cuộc Cách
mạng Văn hóa do Chủ tịch Mao Trạch Đông khởi xướng vào tháng 5/1966 và kết thúc
sau khi ông qua đời năm 1976.
Trung Quốc đã trải qua một thập kỷ hỗn
loạn với chiến dịch thanh trừng nhằm trừ khử các đối thủ chính trị của Mao
trong nội bộ Đảng Cộng sản.
Hải chiến Hoàng Sa xảy ra vào thời điểm
Cách mạng Văn hóa gần kết thúc và Đại tá Schuster đánh giá hải quân Trung Quốc
khi đó “hầu như không thể ra biển”.
“Cách mạng Văn hóa hầu như đã khiến
Trung Quốc đánh mất năng lực hậu cần. Do thiếu hụt phụ tùng, chỉ khoảng 10% số
tàu của họ có thể đi biển và đa số gặp các vấn đề về trang thiết bị. Mao chỉ có
thể dựa vào dân quân biển.”
“Đây là những nhóm bán quân sự, được bộ
phận quân huấn huấn luyện chút ít và có thể nhận lệnh từ Hải quân. Thời điểm
đó, lực lượng dân quân biển đã bắt đầu hoạt động quanh quần đảo Hoàng Sa,” ông
nói.
Ông đã nhắc lại việc Mỹ và Trung Quốc
“bắt tay để hy sinh” Việt Nam Cộng Hòa trong trận hải chiến như thế nào và ông
đánh giá Chủ tịch Mao Trạch Đông “hiểu lúc bấy giờ Mỹ không có ý chí chính trị
để bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa”.
“Khi tìm hiểu kỹ Hải chiến Hoàng Sa, tôi
nhận thấy những dấu hiệu chắc chắn đầu tiên cho thấy nước Mỹ đã bỏ rơi Việt Nam
Cộng Hòa.”
“Các tàu chiến Nam Việt Nam đã gửi yêu
cầu trợ giúp đến Hạm đội 7. Nhưng Hạm đội 7 được lệnh không can dự gì với Trung
Quốc. Thế nên Hạm đội 7 đã từ chối.”
Theo thông tin từ Hạm đội 7, trong Chiến tranh
Việt Nam, hạm đội này thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu như điều máy bay không
kích, bắn yểm trợ, đổ bộ, tuần tra và tác chiến sử dụng mìn.
Sau Hiệp định Paris 1973, Hạm đội 7 thực
hiện các hoạt động chống mìn trên vùng biển gần bờ ở Bắc Việt.
“Không có sự hỗ trợ của Mỹ, quân đội
Việt Nam Cộng Hòa phải đánh cận chiến nhưng binh lính lại không được huấn luyện
tốt, kỹ năng tác xạ rất kém. Họ chịu tổn thất lớn và nhiều binh sĩ bỏ mạng. Nam
Việt Nam để mất nhóm đảo Lưỡi Liềm và nước Mỹ đã không phản đối,” ông nói với
BBC.
Có 74 quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tử
trận khi Hải chiến Hoàng Sa nổ ra vào ngày 19/1/1974.
Ông Schuster đánh giá rằng nếu Hạm đội 7
có mặt thì tình hình đã khác. “Nhưng do đã hứa [với Trung Quốc], nước Mỹ chọn
đứng ngoài cuộc,” ông nói.
Vai trò của Kissinger
Đại tá Schuster cũng đề cập đến vai trò
của Henry Kissinger, người giữ chức Ngoại trưởng Mỹ giai đoạn 1973 - 1977 và Cố
vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống Richard Nixon từ năm 1969 đến tháng
11/1975.
Với vai trò Cố vấn An ninh Quốc gia và
Ngoại trưởng, ông này đã theo đuổi mạnh mẽ chính sách hòa hoãn (détente), giúp
làm tan băng quan hệ giữa Mỹ với Liên Xô và Trung Quốc.
Ngày 9/7/1971, Henry Kissinger đã gặp
Thủ tướng Trung Quốc Chu n Lai để sắp xếp chuyến viếng thăm lịch sử đến Bắc
Kinh của Tổng thống Richard Nixon vào tháng 2/1972.
Tài liệu giải mật của Bộ Ngoại giao Mỹ
về cuộc trao đổi giữa
ông Kissinger với Đại sứ Hàn Tự, Quyền Trưởng Văn phòng liên lạc Trung Quốc, có
ghi rõ đoạn này. Cuộc nói chuyện diễn ra tại Washington vào ngày 23/1/1974, tức
chỉ vài ngày sau Hải chiến Hoàng Sa.
“Nước Mỹ không ủng hộ Nam Việt Nam tuyên
bố chủ quyền đối với những đảo này. Tôi cũng muốn nói rõ điều đó,” Kissinger
trấn an Hàn Tự.
Phát biểu tại Thượng
đỉnh Chiến tranh Việt Nam tại Thư viện LBJ ở Austin, Texas vào
ngày 26/4/2016, ông Kissinger cũng nói Hoàng Sa không quan trọng bằng các vấn
đề khác vào thời điểm ấy.
Ông Kissinger đã trả lời như sau trước
câu hỏi từ một nhà báo VOA rằng có phải Hoa Kỳ đã đồng ý để Trung Quốc chiếm
Hoàng Sa vào năm 1974 hay không:
“Lập trường của Mỹ liên quan đến quần
đảo ấy là chúng tôi không giữ lập trường về chủ quyền đối với những đảo này.
Vào năm 1974, trong tâm điểm vụ Watergate và cuộc chiến ở Trung Đông, tôi có
thể nói rõ với quý vị là quần đảo Hoàng Sa không phải là ưu tiên trên hết trong
tâm trí chúng tôi. Nhưng không có thỏa thuận nào được ký mà trong đó chúng tôi
trao quyền cho Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa cả, người Trung Quốc
cũng chưa từng tuyên bố như vậy.”
Bình luận về vai trò của Kissinger, Đại
tá Schuster nói, “Chúng ta không biết được Kissinger đã đưa ra những đảm bảo gì
vì ông ấy không bao giờ thừa nhận. Kissinger nhận ra rằng Quốc hội Mỹ sẽ không
ủng hộ việc tiếp tục nỗ lực chiến tranh và tâm lý của dân Mỹ khi đó là hãy chấm
dứt tổn thất và thoát ra.”
“Tôi nghĩ Mao Trạch Đông nắm được điều
đó. Ông ta không phải là một nhà chiến lược quân sự giỏi nhưng ông ta hiểu lúc
bấy giờ Mỹ không có ý chí chính trị để bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa. Hãy nhớ rằng
Kissinger đã bỏ rơi Đài Loan bởi ông ấy nghĩ Mỹ cần một Trung Quốc mạnh để đối
phó với Liên Xô.”
“Và kết quả là chính quyền Nam Việt Nam
đã bị hy sinh cho mục tiêu lớn hơn của Kissinger, cho việc thiết lập một Trung
Quốc thịnh vượng và mạnh mẽ mà Kissinger cho rằng sẽ trở thành đồng minh của Mỹ
trong thế kỷ 20,” Đại tá Schuster nói.
Bài học lịch sử
Sau năm 1974, Hải chiến Hoàng Sa và vai
trò của quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong sự kiện này ít được đề cập trên các
kênh thông tin chính thống của nhà nước tại Việt Nam. Phải đến năm 2014, nhân
dịp kỷ niệm 40 năm, Hải chiến Hoàng sa mới được báo chí chính thống đề cập rầm
rộ.
Tiếp đó là sự kiện Trung Quốc đưa giàn
khoan Hải Dương 981 hoạt động trong vùng biển gần Hoàng Sa gây căng thẳng trầm
trọng với Việt Nam.
Lúc bấy giờ, các cuộc biểu tình phản đối
Trung Quốc đã nổ ra nhiều nơi, lớn nhất là tại Hà Nội và quanh TP HCM. Bạo loạn
tại một số khu công nghiệp ở tỉnh Bình Dương vào tháng 5/2014 đã gây thiệt
hại cho các công ty không chỉ của Trung Quốc mà còn của Đài Loan và Singapore.
Giới quan sát trong nước đánh giá rằng
Trung Quốc luôn chớp thời cơ tốt để hành động, như 19/1/1974 tấn công Hoàng Sa,
17/2/1979 tấn công biên giới phía bắc Việt Nam và 14/3/1988 tấn công cụm đá Gạc
Ma tại Trường Sa. Đấy là các thời điểm Việt Nam mất cảnh giác và suy yếu nhất.
Đây là một bài học quan trọng cho Việt Nam trước sự bành trướng ngày càng mạnh
mẽ của Bắc Kinh.
Về ý này, Đại tá Schuster gợi ý rằng để
đối phó, Việt Nam cần phải có càng nhiều đối tác càng tốt.
“Tôi nghĩ lý do Chủ tịch Tập Cận Bình
đưa ra nhiều lợi ích kinh tế cho Việt Nam trong chuyến thăm vừa qua là bởi ông
ấy lo ngại việc Mỹ cũng đưa ra giống như vậy cho Việt Nam.”
“Càng nhiều đối tác thì càng tốt. Đừng
bao giờ phụ thuộc vào một đối tác để làm đối trọng vì bạn không bao giờ biết nó
có thể biến mất lúc nào.”
“Nếu là lãnh đạo quốc gia, bạn có dám
đặt cược vận mệnh tương lai quốc gia mình vào một người nào đó không?”
Chuyên gia về an ninh quốc phòng này cho
rằng Ấn Độ sẽ là đối tác quan trọng cho Việt Nam trong công nghệ quốc phòng và
Nhật Bản cũng là “đồng minh tự nhiên”.
“Tôi nghĩ việc củng
cố quan hệ với Ấn Độ
là điều mà Việt Nam có thể cân nhắc đưa vào bài toán. Công nghiệp quốc phòng Ấn
Độ rất phát triển.”
'Sau mùa hè 2025'
Về viễn cảnh nào cho tình hình Biển Đông
và những điểm nóng nào có thể bùng phát, Đại tá Carl Schuster nói với BBC rằng
ông Tập Cận Bình sẽ muốn chiến thắng trên Biển Đông mà không phải nổ phát súng
nào, đồng thời dự đoán nếu xảy ra sự kiện lớn nào đó thì phải sau mùa hè năm
2025.
“Tôi nghĩ Tập Cận Bình phải cân nhắc rất
kỹ về sức mạnh ý chí của nước Mỹ.
Có nhiều người Mỹ, tinh hoa chính trị và
doanh nhân, nghĩ là nước Mỹ nên thỏa hiệp với Trung Quốc bởi hai nền kinh tế đã
có sự gắn kết. Tôi nghĩ Tập Cận Bình coi điều đó là có lợi. Ông ta xem nỗ lực
dàn xếp của Mỹ với Trung Quốc là một điểm có thể khai thác.”
“Tập Cận Bình sẽ càng thể hiện rõ hơn ý
chí của mình. Nhưng tôi không nghĩ điều đó sẽ diễn ra trước cuộc bầu cử tổng
thống Mỹ 2024 vì có thể bất lợi cho Trung Quốc. Nhưng sau 2024, Tập sẽ có dịp
thử phản ứng của tân tổng thống và tân quốc hội. Nếu ông Joe Biden tái đắc cử
thì Tập Cận Bình sẽ tiếp tục lợi dụng điều mà ông ta xem là ‘điểm mù’ của
Biden, người tin rằng đối thoại là biện pháp tốt nhất để giải quyết mọi vấn đề.
Vấn đề là với những kẻ áp bức và độc tài, họ xem đối thoại là biểu hiện của yếu
đuối. Tôi nghĩ vấn đề lớn có xảy ra thì phải sau mùa hè năm 2025.”
“Năm 2027, theo tôi, cũng là một năm khó
khăn. Tập Cận Bình có thể muốn chiến thắng trên Biển Đông mà không phải nổ phát
súng nào.”
Năm 2027 là mốc thời gian mà các lãnh
đạo quân sự và tình báo Mỹ cho rằng Trung Quốc có thể xâm lược Đài Loan. Lý do
là khi đó quân đội Trung Quốc đã đủ sức mạnh sau quá trình hiện đại hóa.
Người ta cũng dùng khái niệm “luộc ếch”,
tức đun nóng từ từ, để mô tả cách mà Bắc Kinh thực hiện chiến lược Đài Loan.
Nói cách khác, Bắc Kinh chọn kế “bất chiến tự nhiên thành”, theo binh pháp Tôn
Tử, là không cần ra quân mà Đài Loan cuối cùng sẽ về theo Trung Quốc sau vài
chục năm chịu sức ép.
Về phía Mỹ, chuyên gia Schuster cho rằng
chính quyền sắp tới tại Washington phải “mạnh tay” hơn trước sự bành trướng của
Trung Quốc.
“Từ góc độ chính sách ngoại giao, hành
động mạnh, phòng vệ ngăn chặn bằng quân sự, hành động kinh tế và ngoại giao
mạnh, để Trung Quốc biết là phải trả giá thì sẽ khiến họ tính toán lại, còn nếu
chỉ có nói thôi thì Trung Quốc sẽ leo thang, sẽ đẩy và giật cho đến khi nào đạt
được mục đích thì thôi.”
“Nếu Mỹ để Trung Quốc bắt nạt
Philippines thì tiếp theo sẽ là Việt Nam, Indonesia và Malaysia… Khi con voi
chĩa vòi vào lều của bạn, nếu bạn chỉ vỗ nhẹ vào vòi thì sau đó nó sẽ chui hẳn
vào căn lều,” ông ví von.
Ông Carl Schuster đã có 25 năm phục vụ trong Hải quân Mỹ. Ông từng công tác trên các tàu chiến và từ năm 1980 chuyển sang lĩnh vực tình báo hải quân, trong đó có vai trò chuyên viên phân tích hoạt động của Hải quân Trung Quốc