Trang

Thứ Tư, 30 tháng 12, 2020

3297. PHÂN TÍCH ĐẠO LUẬT MẬU DẦN (1938).

ĐÍNH KÈM NGUYÊN VĂN ĐẠO LUẬT MẬU DẦN (1938) 

PHÂN TÍCH ĐẠO LUẬT MẬU DẦN (1938).
Pháp lý và Đồ họa mối tương quan của bốn cơ quan.

Đạo Luật Mậu Dần (1938) lập vào năm đạo thứ 12 (Thập Nhị Niên); có 4 cơ quan và mối tương quan giữa các cơ quan ấy là điều mà người đạo cần am tường để việc hành đạo được êm thắm, tốt đẹp.

I/- Tiến trình thành lập Đạo Luật Mậu Dần (1938).


1/- TỜ KIẾT CHỨNG: Của Chư Chức Sắc Thiên Phong toàn thể Chánh Trị Đạo.

Nhóm tại Tòa Thánh ngày mùng 8 tháng Giêng năm Mậu Dần (07-02-1938).

Đến ngày 14 nầy, phải hội hiệp lại đặng chung nhau bàn định.

Tới đây hết điều bàn tính, Đức Hộ Pháp truyền tụng kinh xuất hội.

Bãi Hội 11 giờ rưỡi.

2/- Bộ Luật nầy ban hành kể từ ngày Rằm tháng Giêng năm Mậu Dần (14 Février 1938)

3/- Lập tại Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Dần (le 16 Février 1938).

II/- Pháp lý Quyền Chí Tôn.

Quyền Chí Tôn có 3 diện:

1/- Quyền Chí Tôn Chí Linh: Do chính Đức Chí Tôn cầm đây là quyền tuyệt đối. Chí Tôn ban ra là Pháp Giới Chí Linh.

2/- Quyền Chí Tôn Vô Vi: Do Đức Lý Giáo Tông (cầm quyền Giáo Tông vô vi) hiệp cùng Đức Hộ Pháp lập thành. Thí dụ như lập thành Bát Đạo Nghị Định.

Đức Hộ Pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài là chơn thần của đạo là bán hữu hình; nên có phần hữu hình là cầm quyền Tư Pháp và phần vô vi là dùng cơ bút nối liền với Thiêng Liêng. Tham gia lập pháp là phần vô vi của Hiệp Thiên Đài.

3/- Quyền Chí Tôn Tại Thế: Do phẩm Giáo Tông Chưởng Quản Cửu Trùng Đài (phần hữu hình) và Đức Hộ Pháp lập thành. Quyền Chí Tôn Tại Thế lập luật.

Sau khi Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đăng tiên (1934). Hội Thánh công cử Đức Hộ Pháp cầm quyền Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng, nghĩa là cầm quyền Chí Tôn tại thế.

III/- Quyền Chí Tôn trong Đạo Luật Mậu Dần (1938).

Ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Dần (le 16 Février 1938) Đức Ngài dạy rằng: Trọn hai ngày bàn cải, đã đặng chư Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ trong toàn thể Chánh Trị Đạo bỏ thăm công nhận Bộ Đạo Luật nầy, rồi Đức Hộ Pháp cầm Bộ Đạo Luật đưa lên tuyên bố rằng:

"Ngày nay, trong nền Đại Đạo của Đức Chí Tôn đã có cho Hội Thánh một bộ Đạo Luật nữa.

Vậy từ đây, mỗi năm sau khi tom góp các nguyện ước của Quyền Vạn Linh rồi, thì mỗi cơ quan trong nền Chánh Trị Đạo cũng do theo để mà định Luật cho Hội Thánh thi hành, hầu khỏi điều phản khắc".

Nhiều vị đã thắc mắc rằng trong Đạo Luật Mậu Dần có câu: ''Theo Pháp Chánh Truyền thì buổi hội nầy Đầu Sư phải làm Chủ Tọa, đặng kiểm duyệt các lời quyết định của 4 cơ quan trong toàn thể Chánh Trị Đạo, hầu dâng lên cho Quyền Chí Tôn phê chuẩn.

Nhưng sao không thấy đàn cơ phê duyệt? Xin trả lời rằng:

1/- Theo tiến trình trên đây thì Tờ Kiết Chứng lập ngày 8/1/Mậu Dần (1938) định rằng 14/1/Mậu Dần sẽ họp. Cả Hội đã bàn luận hai ngày 14 và 15 tháng giêng Mậu Dần (1938).

Sau đó dâng lên cho Quyền Chí Tôn phê chuẩn; chính là Đức Hộ Pháp phê chuẩn.

Hiểu như thế đúng với pháp luật đạo và phù hợp với lời dạy Đức Hộ Pháp đoạn kế đó: Song phẩm Đầu Sư không có, nên Bần Đạo phải tạm thay quyền Chủ Tọa. Lại nữa, ngày nay Bần Đạo nắm Quyền Thống Nhứt thì Quyền Đầu Sư cũng thuộc về Bần Đạo nữa".

Thứ nữa trong năm Đinh Sửu (1937) có mở Ba Hội Lập Quyền Vạn Linh và có đúc kết nguyện vọng. Đó là nguồn gốc để lập ra Đạo Luật Mậu Dần (1938). Cho nên trong TỜ KIẾT CHỨNG lập ngày 8/1/Mậu Dần (1938) có câu: …theo Thiên ý của Đức Chí Tôn là để trọn quyền cho Chúng sanh tự lập Luật mà tu, nên các nguyện ước của Quyền Vạn Linh cầu nài và Quyền Chí Tôn công nhận nhập thành với Tân Luật, gọi là Luật Hội Thánh.

Theo luật Thượng Hội thì Giáo Tông và Hộ Pháp là Hội Trưởng và Phó Hội Trưởng của Thượng Hội. Hai phẩm hiệp lại là quyền Chí Tôn nên không tham gia bàn luận hay biểu quyết trong Thượng Hội. Nhưng khi Thượng Hội đã biểu quyết xong xuôi thì dâng lên cho Quyền Chí Tôn định. Giáo Tông và Hộ Pháp vào đại điện mật nghị trong 15 phút và trở ra cho biết thuận hay không. Ðiều Thứ Mười Bốn: Sau khi hội Thượng Hội thì Giáo Tông và Hộ Pháp phải đình Hội lại 15 phút đồng hồ đặng hai người vào Ðại Ðiện mật nghị rồi phải trở ra cho Thượng Hội hay những điều của hai đàng nhứt tâm quyết định.

IV/- Tương quan của các cơ quan: Hành Chánh, Phước Thiện, Phổ Tế và Tòa Đạo là 4 cơ quan trong Đạo Luật Mậu Dần (1938). Chúng tôi trình bày mối tương quan qua đồ họa sau:



Đạo Luật Mậu Dần (1938) có 4 chương, 17 điều. Chương I: Hành Chánh có 17 điều. Chương II: Phước Thiện lấy điều 10 & 11 chương Hành Chánh lập thành. Chương III: Phổ Tế lấy điều 14 chương Hành Chánh lập thành. Chương IV: lấy điều 5 chương Hành Chánh lập thành.

Như vậy bộ luật thể hiện ý chí: Hành Chánh thống quản Phước Thiện, Phổ Tế và Tòa Đạo./.


NGUYÊN VĂN ĐẠO LUẬT MẬU DẦN (1938).

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ

(Thập Nhị Niên)

Tòa Thánh Tây Ninh


TỜ KIẾT CHỨNG
CỦA CHƯ CHỨC SẮC THIÊN PHONG
TOÀN THỂ CHÁNH TRỊ ĐẠO

 

Nhóm tại Tòa Thánh ngày mùng 8 tháng Giêng năm Mậu Dần (07-02-1938).

Khi Lễ Viện rước Đức Hộ Pháp đến nhà Hội, chư Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ đồng đứng dậy chào mừng.

Có mặt:

HIỆP THIÊN ĐÀI

 

Đức Hộ Pháp

 

Ông Khai Pháp Trần Duy Nghĩa

 

Ông Tiếp Lễ Nhạc Quân Trần Quang Thế

 

Ông Tả Phan Quân Trang văn Giáo

 

Ông Truyền Trạng Nguyễn Tấn Chức

 

Ông Sĩ Tải Đổ Quang Hiển

 

Ông Sĩ Tải Huỳnh văn Đại

 

Ông Sĩ Tải Nguyễn văn Hợi

 

Ông Sĩ Tải Võ Thành Quốc

 

Luật Sự Nguyễn văn Hoa

CỬU TRÙNG ĐÀI

 

Nam Phái:

 

Ông Qu. Ngọc Chánh Phối Sư Ngọc Trọng Thanh

 

Ông Qu. Thượng Chánh Phối Sư Thượng Chữ Thanh

 

Ông Qu. Thái Chánh Phối Sư Thái Phấn Thanh

 

Giáo Sư

9 vị

 

Giáo Hữu

13 vị

 

Lễ Sanh

187 vị

 

Nữ Phái:

 

Bà Phối Sư Hương Hiếu

 

Bà Giáo Sư Hương Nhiều

 

Bà Giáo Sư Hương Quế

 

Bà Giáo Sư Hương Châu

 

Giáo Hữu

6 vị

 

Lễ Sanh

...

Đức Hộ Pháp mời Chư Thánh đứng dậy tụng kinh nhập hội, rồi để lời cám ơn chư Chức Sắc đương quyền tựu về dự hội đông đủ, và dẫn giải các cơ quan trong nền Chánh Trị Đạo, tóm tắt đại ý như vầy:

Hiện nay trong nền Chánh Trị Đạo của Đức Chí Tôn có 4 cơ quan là:

1.                 Hành Chánh

2.                 Phước Thiện

3.                 Tòa Đạo

4.                 Phổ Tế

HÀNH CHÁNH là cơ quan để thi hành các luật lịnh của Hội Thánh hoặc của chúng sanh dâng lên mà đã có Quyền Chí Tôn phê chuẩn, nghĩa là buộc chúng sanh phải tuân y Luật Pháp mà đi trên con đường Đạo Đức cho đặng thong dong, hòa bình, trật tự, hạnh phúc, an nhàn, tức là thật hành cả khuôn viên luật pháp cho ra thiệt tướng.

PHƯỚC THIỆN là cơ quan bảo tồn sanh chúng trên đường sanh hoạt nuôi sống thi hài, tức là cơ quan giải khổ cho chúng sanh, tầm phương bảo bọc những kẻ tật nguyền, cô độc, dốt nát, ít oi, hoặc giúp tay cho bên hành chánh thi hành Luật Pháp cho đặng dễ dàng trọn vẹn.

TÒA ĐẠO là cơ quan bảo thủ Chơn Truyền, gìn giữ Luật Pháp, chăm nom chư Chức Sắc, Chức Việc và Đạo Hữu thi hành phận sự, chở che những kẻ yếu tha, bênh vực những người cô thế, hoặc tiếp cả sự uất ức bất công của toàn sanh chúng, tức là giữ nét công bình trên mặt Đạo; lại cũng là một cơ quan giúp cho Hành Chánh, Phước Thiện và Phổ Tế thêm oai quyền mạnh mẻ, tôn nghiêm đặc sắc.

Tóm lại là lập phương bảo toàn sanh chúng khỏi điều thống thiết đau khổ với nét oai nghiêm của Chức Sắc đương quyền hành chánh.

PHỔ TẾ là cơ quan để cứu vớt hoặc độ rỗi những người lạc bước thối tâm, cùng an ủi khuyên lơn những kẻ đã bị luật pháp buộc ràng mà phế vong phận sự, hay là độ rỗi những kẻ hữu tâm tầm Đạo.

Tổng hợp 4 cơ quan nầy lại gọi là toàn thể Chánh Trị Đạo.

Mỗi năm, ngày vía Đức Chí Tôn, cả Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ có trách nhậm trong nền Chánh Trị Đạo phải hội nhóm lại, đặng chia ra quan sát tờ Vi Bằng của Quyền Vạn Linh ước vọng, cùng tầm phương pháp thật hành cho nên mặt Đạo.

Sau khi 4 cơ quan hiện hữu của toàn thể Chánh Trị Đạo hiệp nhau lập Luật và quyết định phương pháp thật hành thì buộc Hội Thánh phải thi hành y theo, tức nhiên nó sẽ thành Luật , vì bởi theo Thiên ý của Đức Chí Tôn là để trọn quyền cho Chúng sanh tự lập Luật mà tu, nên các nguyện ước của Quyền Vạn Linh cầu nài và Quyền Chí Tôn công nhận nhập thành với Tân Luật, gọi là Luật Hội Thánh.

Ấy vậy, bên Hành Chánh Ông Ngọc Chánh Phối Sư hiệp cùng nhị vị Thái và Thượng Chánh Phối Sư lo sắp đặt đặng quan sát.

Bên Phước Thiện thì có Ông Khai Pháp H.T.Đ. làm đầu.

Bên Tòa Đạo thì chư vị Sĩ Tải H.T.Đ. hiệp nhau lập Luật và định phương pháp thật hành.

Bên Phổ Tế thì có Giáo Sư Thượng Đức Thanh và Bà Giáo Sư Hương Quế hiệp nhau lo lắng.

Đến ngày 14 nầy, phải hội hiệp lại đặng chung nhau bàn định.

Tới đây hết điều bàn tính, Đức Hộ Pháp truyền tụng kinh xuất hội.

Bãi Hội 11 giờ rưởi.


 

KỲ HỘI NGÀY 14 THÁNG GIÊNG NĂM MẬU DẦN

 

Cũng như ngày hội trước, khi Đức Hộ Pháp đến thì Chư Chức Sắc Thiên Phong đứng dậy chào mừng.

Đức Hộ Pháp đáp lời và truyền tụng kinh nhập hội.

Sau khi Chư Chức Sắc Thiên Phong an tọa, Đức Hộ Pháp bèn thuyết minh đại ý như vầy:

''Theo Pháp Chánh Truyền thì buổi hội nầy Đầu Sư phải làm Chủ Tọa, đặng kiểm duyệt các lời quyết định của 4 cơ quan trong toàn thể Chánh Trị Đạo, hầu dâng lên cho Quyền Chí Tôn phê chuẩn. Song phẩm Đầu Sư không có, nên Bần Đạo phải tạm thay quyền Chủ Tọa. Lại nữa, ngày nay Bần Đạo nắm Quyền Thống Nhứt thì Quyền Đầu Sư cũng thuộc về Bần Đạo nữa".

Dứt lời, Ngài dạy chư vị Sĩ Tải H.T.Đ. đọc Luật và các phương pháp thật hành, rồi Ngài dạy bên Hành Chánh, bên Phước Thiện, và bên Phổ Tế, mỗi cơ quan luân phiên nhau đọc lời quyết nghị đặng xem coi có phản khắc cùng nhau chăng, hay là đồng ý kiến.

Trọn hai ngày bàn cải, đã đặng chư Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ trong toàn thể Chánh Trị Đạo bỏ thăm công nhận Bộ Đạo Luật nầy, rồi Đức Hộ Pháp cầm Bộ Đạo Luật đưa lên tuyên bố rằng:

"Ngày nay, trong nền Đại Đạo của Đức Chí Tôn đã có cho Hội Thánh một bộ Đạo Luật nữa.

Vậy từ đây, mỗi năm sau khi tom góp các nguyện ước của Quyền Vạn Linh rồi, thì mỗi cơ quan trong nền Chánh Trị Đạo cũng do theo để mà định Luật cho Hội Thánh thi hành, hầu khỏi điều phản khắc".

Đến đây hoàn tất mọi việc, Đức Hộ Pháp để lời khen toàn thể Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ và truyền tụng kinh xuất hội.

Bãi hội 8 giờ tối ngày rằm.

Lập tại Tòa Thánh Tây Ninh, ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Dần (le 16 Février 1938).

 

Chứng kiến

Từ Hàn

Chủ Tọa

Sĩ Tải H.T.Đ

Phạm Hộ Pháp

Nguyễn Văn Hợi

 

 

Chư Chức Sắc Thiên Phong toàn thể Chánh Trị Đạo đồng ký tên:

CHỨC SẮC HÀNH CHÁNH:

Quyền Thái Chánh Phối Sư

Thái Phấn Thanh

Quyền Thượng Chánh Phối Sư

Thượng Chữ Thanh

Quyền Ngọc Chánh Phối Sư

Ngọc Trọng Thanh

Nữ Phối Sư

Hương Hiếu

CHƯ CHỨC SẮC PHƯỚC THIỆN:

Khai Pháp H.T.Đ.
Chưởng Quản Phước Thiện


Trần Duy Nghĩa

CHỨC SẮC PHỔ TẾ:

Chủ Trưởng Nam Phái
Giáo-Sư


Thượng Đức Thanh

Phó Chủ Trưởng Nữ Phái
Giáo Sư


Hồ Hương Quế

TÒA ĐẠO HIỆP THIÊN ĐÀI:

1./

Truyền Trạng

Nguyễn Tấn Chức

2./

Sĩ-Tải

Đỗ Quang Hiển

3./

Sĩ-Tải

Huỳnh Văn Đại

4./

Sĩ-Tải

Nguyễn Văn Kiết

5./

Sĩ-Tải

Nguyễn Văn Hợi

6./

Sĩ-Tải

Võ Thành Quốc

7./

Luật Sự

Nguyễn Văn Hoa

CHƯƠNG THỨ I: HÀNH CHÁNH

 

ĐIỀU THỨ NHẤT:

 

I.-

Cầu Phong

 

II.-

Thăng Thưởng

 

III.-

Hàm Phong

 

IV.-

Truy Phong

 

V.-

Cách Tổ Chức Hội Quyền Vạn Linh

 

ĐIỀU THỨ NHÌ: Ý Kiến Về Chính Trị Đạo Đương Thời

 

ĐIỀU THỨ BA: Những Phương Pháp Hay Đặng Chỉnh Đốn Thêm Nữa

 

ĐIỀU THỨ TƯ: Những Ước Vọng Của Toàn Tín Đồ Trong Đạo

 

ĐIỀU THỨ NĂM: Quan Sát Gia Nghiệp Của Đạo

 

ĐIỀU THỨ SÁU: Quan Sát Sổ Thâu Xuất Hằng Niên và Định Phần Dự Trử

 

ĐIỀU THỨ BẢY: Phương Diện Giáo Dục, Cất Hạnh Đường và Học Đường Các Thánh Thất

 

ĐIỀU THỨ TÁM: Phương Pháp Châu Cấp Cho Thiên Phong Đi Hành Đạo

 

ĐIỀU THỨ CHÍN: Tu Tạo Tòa Thánh và Các Dinh Thự Nơi Thánh Địa

 

ĐIỀU THỨ MƯỜI VÀ MƯỜI MỘT: (Thuộc về Phước Thiện, xem chương thứ hai)

 

ĐIỀU THỨ MƯỜI HAI: Phương Cách Thân Thiện Với Quyền Đời

 

ĐIỀU THỨ MƯỜI BA: Hành Vi Đương Thời Thế Nào, Và Sẽ Tới Phải Thế Nào?

 

ĐIỀU THỨ MƯỜI BỐN: (Về phần Phổ Tế, xin xem chương thứ ba)

 

ĐIỀU THỨ MƯỜI LĂM: (Về phần Tòa Đạo, xin xem chương thứ tư)

 

ĐIỀU THỨ MƯỜI SÁU: Bỏ Thăm Tín Nhiệm Hay Là Không Tín Nhiệm Quyền Thống Nhứt Lại Một Lần Nữa

 

ĐIỀU THỨ MƯỜI BẢY: Nhượng Quyền Cho Quyền Vạn Linh Cầm Quyền Chánh Trị Của Đạo

Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ

 

(Thập Nhị Niên)

 

Tòa Thánh Tây Ninh

 


 

ĐẠO LUẬT

 

CHƯƠNG THỨ I: HÀNH CHÁNH

 

ĐIỀU THỨ NHẤT:  Cầu Phong

LUẬT

Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ toàn Đạo phải chịu dưới quyền công nhận của Vạn Linh mới đặng thăng chức hay là Vạn Linh buộc tội mà bị sa thải.

 

I.- PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH

1.                 Chiếu theo Thánh Giáo của Đức Chưởng Đạo Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, thì Chánh Trị Sự phải có 5 năm công nghiệp đầy đủ với chức trách của mình, sau nữa phải có tờ kiết chứng công nghiệp, tờ tánh hạnh, trường trai, đạo đức, đủ tư cách và phải độ đặng 300 người nhập môn (chẳng kể số Đạo Hữu của cựu Chánh Trị Sự đã độ đặng) thì mới đặng đem vào sổ cầu phong.

2.                 Ngoài ra, nếu còn vị nào có công nghiệp vĩ đại mà có đủ bằng cớ và chiếm đặng lòng tín nhiệm của chúng sanh đồng dâng lên, hoặc công chúng hoan nghinh, thì cũng đặng dự vào sổ cầu phong, nhưng buộc phải là người có chơn trong Đạo.

3.                 Những thông qui cầu phong phải gởi về Hội Thánh trước ngày 30 tháng 8 là ngày khóa sổ. Sau khi thông qui cầu phong đã thành lập mà trong hàng Chức Việc xét mình đủ công nghiệp, nhưng bị im ẩn hay là vì một duyên cớ nào khác mà phải bị lọt sổ, thì đặng quyền kêu nài đến Tòa Đạo minh xét cho.

4.                 Khi đắc phong rồi phải về Hạnh Đường học Đạo, hoặc đi tập sự một thời gian, chừng có đủ tài đức cầm quyền Hành Chánh rồi mới đặng thuyên bổ.

5.                 Còn vị nào đã đủ 5 năm công nghiệp mà bị phạm Luật Pháp mắc tội với Hội Thánh, thì chẳng đặng dự vào sổ cầu phong.

6.                 Thảng như Chức Sắc nào vì tư tình tư nghĩa đem một người không xứng đáng, thì vị Chức Sắc ấy phải chịu một hình phạt của Hội Thánh định tội.

7.                 Vậy khoản cầu phong năm tới, bên quyền Hành Chánh của Hội Thánh sẽ ra Châu Tri rành rẽ cho các nơi dễ bề lựa chọn, hầu tìm phương tuyển đức lọc tài cho nên người ra cầm giềng mối Đạo.

 

II.- THĂNG THƯỞNG

1.                 Mỗi vị Chức Sắc đã đủ 5 năm công nghiệp và xứng đáng với chức trách của mình, mới đặng đệ ra Quyền Vạn Linh công nhận.

2.                 Nếu những vị nào dưới 5 năm công nghiệp mà có lập đặng đại công, toàn công chúng đều hoan nghinh và Tòa Đạo minh tra đủ lẽ, thì sẽ đặng đệ lên Quyền Chí Tôn cầu xin thăng thưởng. (Thăng thưởng về công nghiệp phi thường thì duy có Quyền Chí Tôn mới ban cho đặng mà thôi).

3.                 Còn những vị nào trong 5 năm hành sự mà có phạm Pháp và phạm Luật, thì sẽ bị đình lại lâu hay mau tùy theo tội nặng hay nhẹ, hoặc những vị nào không tròn trách nhậm, cũng phải chịu dưới quyền lực ấy.

4.                 Những vị nào hết tâm vì Đạo mà phải chịu khổ hạnh, hoặc bị tù tội ngục hình, hoặc bị khổ sở tai họa, cũng đặng Hội Thánh cho dự vào sổ cầu phong, ngoài luật định 5 năm công nghiệp.

 

III.- HÀM PHONG

1.                 Những vị nào đủ công nghiệp mà đã quá lục tuần, đặng đem vào thông qui cầu Hàm phong, nhưng phải chịu các điều kiện buộc như những vị đặng hưởng ân phong vậy.

2.                 Còn những Chức Sắc Thiên Phong trong khi hành chánh mà tuổi đã quá lục tuần, nếu còn sức lực lập công thêm nữa thì tùy ý, nhược bằng liệu sức mình già yếu thì đặng xin vào hạng hàm phong. Trong lúc đã hàm phong rồi, mà có thể lập công quả xứng đáng chi khác, thì đúng lệ 5 năm cũng đặng dự cầu thăng hàm phong theo đẳng cắp.

 

IV.- TRUY PHONG

1.                 Những vị nào đầy đủ công nghiệp mà qui vị trước ngày cầu phong, thì đặng Hội Thánh đem vào sổ cầu truy phong đưa ra Quyền Vạn Linh công nhận, nhưng cũng phải có công chúng hoan nghinh và Tòa Đạo minh tra đủ cớ mới đặng.

2.                 Những vị Hàm Phong mà còn lập nên công nghiệp vĩ đại, nhưng liễu Đạo trước ngày cầu thăng thưởng, cũng đặng Hội Thánh xét công nghiệp cầu truy phong thăng thưởng.

3.                 Khi đặng truy phong rồi, con cháu hoặc anh em phải đem long vị về Tòa Thánh với một vài vị Chức Sắc sở tại đưa lên. Khi về đến Tòa Thánh, có Đức Hộ Pháp ban quyền và làm lễ long trọng.

Sau khi hành lễ đưa long vị trở về địa phương, Hội Thánh đưa ra đến cửa ngỏ Tòa Thánh rồi phái vài vị Chức Sắc đưa đi tùy theo phẩm tước, đến tận nơi Thánh Thất sở tại. Đầu Tỉnh, Đầu Họ và Đầu Quận Đạo phải thiết lễ và dựng mộ bia cho long trọng.

 

V.- CÁCH TỔ CHỨC HỘI QUYỀN VẠN LINH

1.                 Chương-trình về Hội Quyền Vạn Linh phải gởi các nơi trước ngày hội ít nữa là ba tháng, và phải phân biệt vấn đề theo mỗi Phái.

2.                 Luật công cử Nghị Viên thì phải hội hiệp tất cả Chức Việc trong Quận bỏ thăm, để tuyển chọn một vị Chánh Trị sự, một vị Phó Trị sự, một vị Thông Sự, Nam Nữ cũng vậy.

3.                 Cứ 500 Đạo Hữu trường trai đặng quyền tuyển cử lên một vị Phái Viên thay mặt.

4.                 Chư Nghị Viên và Phái Viên, sau khi đắc cử rồi, phải có giấy chứng của Đầu Quận, Đầu Họ và Đầu Tỉnh Đạo. Phải nhóm nhau tại Quận Đạo đặng giải quyết những vấn đề trong chương trình rồi lập lời quyết nghị.

5.                 Chư Nghị Viên và Phái Viên phải có mặt tại Tòa Thánh ít nữa là năm ngày trước ngày dự hội, phải trình giấy chứng nhận tại Tòa Nội Chánh đặng đổi giấy dự hội.

6.                 Trước khi vào dự hội, phải trình giấy ấy cho Ban Kiểm Soát và nhứt nhứt tùng lệnh Kiểm Soát Viên sắp đặt trật tự theo mỗi Họ Đạo và Quận Đạo riêng nhau, cho dễ bề quan sát những điều sơ sót. Ấy là phép khảo dượt quyền hành (contrôle des pouvoirs).

7.                 Ngoại trừ ra những người đến dự thính thì phải có chỗ nơi đặc biệt, chẳng đặng trà trộn, hay là thông công cùng chư Nghị Viên một điều chi mà làm cho mất trật tự trong khi hội nhóm.

8.                 Còn Chức Sắc Thiên Phong Nam Nữ từ Lễ Sanh đổ lên đặng trọn quyền vào dự hội.

ĐIỀU THỨ NHÌ: Ý Kiến Về Chính Trị Đạo Đương Thời

LUẬT

Quyền Thống Nhất của Đức Hộ Pháp và Quyền Hội Thánh Nam Nữ đã cầm giềng mối nền Chánh Trị Đạo của Đạo y theo khuôn viên Luật Pháp, nên buộc toàn Đạo phải tùng quyền không đặng một việc chi nghịch mạng.

 

PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH

Nghĩ vì bấy lâu nay nền Chánh Trị Đạo đặng trang nghiêm đặc sắc, là nhờ chư Chức Sắc đương quyền trong nền Chánh Trị biết tuân y mạng lệnh Quyền Thống Nhất của Đức Hộ-Pháp mà thi hành phận sự, chớ cũng chưa đủ tài liệu biện tô điểm cho lịch xinh vẻ Đạo.

Ây vậy về phần Chức Sắc Hành Chánh, cần phải có đủ lòng chơn thật để thi hành phận sự, hoặc tìm phương nâng đỡ, bảo toàn, dìu dẫn, an ủi, khuyên lơn, chỉ dạy con cái của Đức Chí Tôn trổi bước trên đường chí thiện, nghĩa là:

1.                 Thấy người lâm cơn hoạn nạn, nguy nan phải tận tâm điều độ, lo lắng, châu toàn cũng như anh em ruột lo cho nhau vậy.

2.                 Thấy kẻ đói khó tật nguyền phải tìm phương trợ giúp.

3.                 Mỗi kỳ Sóc Vọng tại Thánh Thất hoặc các đàn lệ khác, vị Chức Sắc đương quyền phải thuyết Đạo hoặc đọc Châu Tri, Bố Cáo, hay là dẫn giải những điều khuyết điểm, cùng là khuyến khích, nhắc nhở chư Đạo Hữu trong đường đạo đức. Nói tóm lại, là làm thế nào cho Chúng sanh đặng kết chặt dải đồng tâm, tương thân hòa ái cùng nhau, hầu nâng đỡ cho nhau đặng phấn tâm lo Đạo, chẳng để sót một ai phải bất bình vì một việc chi mà phải khổ tâm thối bước, vì bởi Chánh Trị Đạo lập ra chẳng những để trị mà thôi, mà cũng là một cơ quan để bảo tồn sanh chúng tầm nguồn hạnh phúc.

4.                 Thảng như Chức Sắc nào chẳng vì chủ nghĩa hóa dân qui thiện, làm cho mất tín nhiệm của chúng sanh thì phải chiếu y Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông mà định tội tùy theo nặng nhẹ.

5.                 Muốn cho toàn Đạo kết chặt dải đồng tâm tương thân hòa ái, thì cần năng hội hiệp nhau cho thường để kết tình thân mật, hầu chia vui sớt thảm cho nhau mà gầy khối yêu thương chơn thật.

Vậy mỗi kỳ Sóc Vọng nơi Thánh Thất, toàn chư Chức Sắc, Chức Việc Nam Nữ bên Hành Chánh hay là bên Phước Thiện cũng phải đến chầu lễ Đức Chí Tôn, trước là học hỏi lẫn nhau, sau nghe đọc các Châu Tri, Bố Cáo về sự hành động của Đạo.

6.                 Mỗi Thánh Thất phải lập một tấm bảng biên tên Chức Việc, đặng sau khi biên vào sổ kỷ niệm rồi ghi vào bảng ấy cho dể bề xem xét, coi những vị nào siêng năng sốt sắng và những vị nào biếng nhác không đến hầu Đàn.

7.                 Còn trong hàng Đạo Hữu thì cũng cứ biên vào sổ kỷ niệm như xưa nay, nhưng buộc Chánh Trị Sự phải chăm nom nhắc nhở.

8.                 Trong một năm là 24 kỳ Đàn, mà những con cái biếng nhác của Đức Chí-Tôn không đến thăm viếng Người ít nữa là 20 kỳ Đàn, thì Hội Thánh sẽ không ngó ngàng đến nữa, dầu cho trong đường Đời hay là trong đường Đạo của họ cũng vậy. Nếu như có bận việc chi phải buộc mình vắng mặt, thì phải có tờ giấy Chức Sắc Thiên Phong vi chứng mới đặng.

ĐIỀU THỨ BA: Những Phương Pháp Hay Đặng Chỉnh Đốn Thêm Nữa

LUẬT

Hội Thánh thuyên bổ thêm Chức Sắc Thiên Phong đi cùng khắp các nơi đặng chỉnh đốn Chánh Trị Đạo lại và phổ thông nền Chơn Giáo ra ngoại quốc.

 

PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH

1.                 Từ đây Đầu Tỉnh, Đầu Họ và Đầu Quận Đạo sẽ chỉnh đốn y theo như Quyền Vạn linh đã định. Nam là Chánh, Nữ là Phó, đặng thi hành luật Đạo theo một khuôn khổ và luật lịnh.

2.                 Bắt đầu năm Mậu Dần thì các Văn Phòng Đầu Tỉnh, Đầu Họ và Đầu Quận Đạo phải có một vị Đầu Phòng chỉnh đốn lại cho trang hoàn hơn nữa, nghĩa là:

a.                  Phải lập đủ các sổ sách thâu xuất lại cho kỹ càng.

b.                 Phải lập cho đủ các hồ sơ đặng để lưu chiếu các giấy tờ của Đạo.

3.                 Mỗi Văn Phòng của Đầu Tỉnh Đạo phải có một vị Giáo Hữu làm Đầu Phòng.
Mỗi Văn Phòng của Đầu Họ Đạo phải có một vị Lễ Sanh làm Đầu Phòng.
Mỗi Văn Phòng Đầu Quận Đạo phải có một vị Chánh Trị Sự làm Đầu Phòng.

4.                 Nếu vị Chức Sắc nào muốn làm Đầu Phòng, thì phải có khoa mục tuyển chọn, chứng rằng mình là ngưới có học thức, đủ sức làm tròn bổn phận.

Còn Bàn Trị sự cũng vậy, nhưng khi thi đậu rồi thì buộc phải làm tờ giao ước rõ ràng trọn hiến thân cho Hội Thánh và phế đời hành Đạo, mới đặng thuyên bổ lãnh chức trách Đầu Phòng.

Khoa mục ấy sẽ định thi ở tại Tòa Thánh.

5.                 Từ ngày đã có Đầu Phòng thì giao hết các việc trong văn phòng cho người lo chỉnh đốn, còn Chức Sắc Hành Chánh thì cần phải đi châu lưu cùng khắp trong địa phận mình, trước là xem xét sự hành động của Chức Sắc hoặc Chức Việc dưới quyền, sau nữa gần gũi thân mật để cảm hóa nhơn sanh.

6.                 Bàn Trị Sự nên chọn cử hạng người có tài đức, bất luận là hạng thanh niên hay là bậc trưởng lão, miễn vị ấy đặng phần đông tín nhiệm là đủ.

7.                 Nếu như một ai còn đương quyền Đời mà muốn vào hàng phẩm Chức Việc, thì phải từ bỏ quyền Đời đặng để trọn tâm lo tròn trách nhậm Đạo.

Mỗi khi khuyết Chánh Trị Sự thì chỉ có hàng Phó Trị Sự và Thông Sự đặng quyền dự cử mà thôi, trừ ra những vị nào đã bị phạm Luật Pháp có hình phạt của Hội Thánh. Còn như khuyết Phó Trị Sự, Thông Sự thì chọn những vị nào có đạo đức, đủ tư cách, hoặc dày công; ngoài ra những vị trên đây, thì Đạo Hữu nào dầu mới nhập môn cũng đặng dự cử, miễn là đủ sức tín nhiệm của toàn Đạo trong địa phận thì đặng. Nhưng trừ ra những vị nào đã bị phạm luật pháp có hình phạt của Hội Thánh và người trong các Chi Phái mới trở lại.

Trong mỗi hạn kỳ 6 tháng, xin Hội Thánh phái một Ban Thanh Tra đi xem xét các sự hành động trong Đạo, nào là Hành Chánh, Phước Thiện, Phổ Tế và Tòa Đạo đặng am hiểu các cơ quan trong nền Chánh Trị Đạo, hầu tìm phương giúp hay cho Hội Thánh chấn chỉnh lại cho đặc sắc.

Phải chỉnh đốn Y Viện cho có lương y chăm nom săn sóc những Chức Sắc Thiên Phong bệnh hoạn và bổ đi các nơi trong Thánh Thất.

Hội Thánh phải thuyên bổ Chức Sắc Phổ Tế trong các quận Đạo và công cử Chức Việc Phổ Tế trong mỗi làng Đạo.

ĐIỀU THỨ TƯ: Những Ước Vọng Của Toàn Tín Đồ Trong Đạo

LUẬT

Hội Thánh phải tạo Đền Thờ của Đức Chí-Tôn đặng làm nền móng sự tín ngưởng của cả Chúng Sanh, vì Đạo do nơi đó mà xuất hiện.

 

PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH

Bấy lâu nay, sự tạo tác Đền Thờ của Đức Chí Tôn đã thành ra một lá bùa mê hoặc quả tim của Nhơn Sanh, nên ngày nay chính mình Đức Hộ Pháp đứng ra tạo tác, đặng chuộc sự tín nhiệm lại cho Hội Thánh. Ngài để trọn cả sự hảo tâm của Chúng Sanh đặng bồi đắp vào Đền Thánh, nên chưa bao lâu mà Tòa Thánh sắp hoàn thành. Vậy thì dầu cho phải hao tổn, khổ nhọc bao nhiêu mà còn có một năm nữa là đoạt thành hy vọng, thì xin toàn Đạo cũng vì mục đích cao thượng ấy, để cả đức tin vào đặng tạo lập Toà Thánh trong một năm nữa cho hoàn tất, hầu thiết lễ khánh thành trong năm nay, là năm Kỷ Niệm Khai Đạo và cũng là năm đáo ngươn hội 12 con giáp Đức Chí Tôn lập thành Đại Đạo. Vậy thì làm thế nào ngày Rằm tháng 10 năm Mậu Dần nầy cũng phải đem quả Càn Khôn vào Bát Quái Đài mới đặng.

Số tiền của chư Đạo Hữu hỉ cúng tạo tác Tòa Thánh, thì để trọn vẹn về phần tạo tác Tòa Thánh mà thôi.

Về công quả tạo tác Tòa Thánh, thì dầu bên Phước Thiện hay Phổ Tế có thâu đặng phải giao lại cho Đầu Tỉnh phát giấy công quả, hoặc Đầu Tỉnh Đạo Nữ Phái cũng đặng phép thâu, nhưng phải chịu dưới quyền xem xét của Đầu Tỉnh Đạo Nam Phái và giao số tiền ấy lại liền cho người chớ chẳng đặng lưu giữ, hay là nạp cho Hộ Viện Tòa Thánh phát giấy công quả mà thôi.

ĐIỀU THỨ NĂM: Quan Sát Gia Nghiệp Của Đạo

LUẬT

Cả sản nghiệp của Đạo do Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh và Ông Nguyễn Ngọc Tương đứng bộ từ thử, thì phải cải bộ lại cho Đức Hộ Pháp đứng tên thay mặt làm chủ cho Đạo.

Cấm nhặt không cho những vị Chức Sắc bị Hội Thánh sa thải ra khỏi Đạo, hoặc đã bị ngưng quyền mà còn lấy danh Chức Sắc của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, lợi dụng về mặt nào cả thảy, dầu đối với Đời hay là Đạo cũng vậy.

 

PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH

Đất cát và gia nghiệp của Đạo do Bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương Thanh và Ông Nguyễn Ngọc Tương đứng bộ từ thử, thì phải làm giấy tờ rành rẽ giao lại cho Đức Hộ Pháp đứng bộ thay mặt cho Đạo. Việc cải bộ nầy xin giao cả hồ sơ nhờ Trạng Sư thi hành.

Còn đất lập Thánh Thất các nơi mà chỗ nào giấy tờ chưa rành rẽ, thì cũng phải lo làm giấy bán đứt lại cho Hội Thánh trọn quyền làm chủ.

Lập một Ban Ủy Viên thuộc dưới quyền của Thượng Chánh Phối Sư đi cùng khắp đặng chỉnh đốn phép tắc và giấy tờ các Thánh Thất lại.

Mỗi Thánh Thất phải lập một cuốn Bộ Từ Khí biên các vật dụng của Đạo. Hội Thánh có quyền buộc bồi thường những của cải của Đạo bị hao hớt và trộm cắp, nếu có đủ bằng cớ vị ấy là gian xảo.

ĐIỀU THỨ SÁU: Quan Sát Sổ Thâu Xuất Hằng Niên và Định Phần Dự Trử

LUẬT

Mỗi năm, Quyền Vạn Linh được quyền xem xét các sổ sách thâu xuất hằng niên tại Tòa Thánh hoặc các Thánh Thất rồi định phần dự trử.

 

PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH

8.                 Cả số tiền thâu vào Hộ Viện thì vị Quản Lý phải làm biên lai nhận lãnh, có lót giấy lọ (carbone) đặng thành ra 2 bổn, 1 bổn giao cho người nạp tiền và 1 bổn để lưu chiếu cho Hội Thánh.

9.                 Nơi Văn Phòng Đầu Tỉnh Đạo cũng phải làm như vậy. Biên lai ấy phải nói rành rẽ do thông qui số mấy của vị nạp tiền.

10.             Xuất ra thì phải có đủ bằng cớ toa vé và cũng phải có lời phê của Chức Sắc bề trên.

11.             Mỗi khi nhóm lệ thì vị Quản Lý Hộ-Viện hoặc vị Đầu Phòng phải đem sổ sách ra trình Hội quan sát. Nếu có điều chi sơ thất thì chư vị ấy phải chịu phần trách cứ.

12.             Nơi Thánh Thất thì Đầu Quận Đạo phải lập sổ thâu xuất hằng tháng hoặc nơi Văn Phòng mình, đặng dâng lên Đầu Họ xem xét rồi đệ lên cho Đầu Tỉnh Đạo phê chuẩn.

ĐIỀU THỨ BẢY: Phương Diện Giáo Dục, Cất Hạnh Đường và Học Đường Các Thánh Thất

LUẬT

Phải lập Hạnh Đường nơi Tòa Thánh và Văn Phòng Đầu Tỉnh Đạo đặng giáo hóa Chức Sắc Thiên Phong và Chức Việc, cùng lập Học Đường đặng dạy dỗ trẻ em cho rõ thông chữ nghĩa và kinh kệ. Các Thánh Thất đều phải có Học Đường. Mỗi năm mở khoa mục khảo dượt một lần đặng ban cấp bằng hay là giấy chứng nhận cho những vị thi đỗ.

 

PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH

I.- HAÏNH ĐƯỜNG

Bắt đầu năm Mậu Dần, xin Hội Thánh tái lập Hạnh Đường. Trường Hạnh Đường sẽ mở ra 2 lớp:

Một lớp có 1 vị Giáo Sư dạy chư vị Giáo Hữu và Lễ Sanh.

Một lớp có 1 vị Giáo Hữu dạy chư vị Chức Việc, dưới quyền của Hiệp Thiên Đài kiểm soát vì về giáo huấn là thuộc quyền của Hiệp Thiên Đài.

Mỗi kỳ nhập học là 30 vị trong mỗi lớp. Học trong hạn lệ là 1 tháng, khi thi đậu ra trường thì phải có giấy chứng nhận của nhà trường ban cho, rồi mới đặng thuyên bổ ra đi hành chánh.

Vị nào mãn kỳ học mà chẳng đặng giấy cấp bằng tốt nghiệp của nhà trường, thì kỳ sau phải bị đòi về học nữa.

Mãn kỳ học nầy thì kế mời kỳ khác về học. Những vị nào muốn nhập học thì phải gởi đơn xin trước rồi chừng đặng thơ mời mới đặng về nhập học.

Thảng như vị nào đặng thơ mời mà không về, hoặc bê trể, hay là khi nhập học rồi mà bỏ lớp vô bằng cớ, thì phải bị Hội Thánh định tội.

II.- HỌC ĐƯỜNG

Nhà trường Đạo Đức phải chỉnh đốn lại cho hoàn toàn, mở thêm cho rộng lớn. Phải mở thêm một Nữ Học Đường cho Nữ Phái.

Tu bổ nhà trường cho có đủ lớp học, nhà ngủ giáo viên, nhà ngủ học sinh, nhà ăn, bàn ghế và các vật dụng trong trường (fournitures classiques).

Mộ thêm giáo viên nam nữ và định phần châu cấp mỗi tháng.

Con nhà Đạo từ 6 tuổi đổ lên phải cho vào nhập học, bất luận là nhà trường nào; nếu để cho con dốt thì sẽ bị Hội Thánh định tội.

Một hạng được hưởng học bổng (boursiers) là con của Chức Sắc Thiên Phong đương quyền hành chánh, những trẻ em mồ côi, hoặc con của Đạo hiến thân trọn vẹn.

Cha mẹ có của cải và có bề thế làm ăn đủ thì phải đóng tiền học phí (payant) mỗi tháng theo thể lệ nhà trường nhứt định.

Ty giáo huấn nên lập cuốn sổ lạc quyên (caisse de charité) dưới quyền của Thượng Chánh Phối Sư, để nhờ nơi lòng từ thiện của nhơn sanh trợ giúp cho các trẻ em mồ côi ăn học.

Chư Đầu Tỉnh, Đầu Họ và Đầu Quận Đạo phải kiếm những Đạo Hữu thanh niên có cấp bằng tốt nghiệp đặng xin Chánh Phủ mở Học Đường trong toàn cả Thánh Thất.

ĐIỀU THỨ CHÍN: Tu Tạo Tòa Thánh và Các Dinh Thự Nơi Thánh Địa

LUẬT

Toàn Đạo Nam Nữ mỗi năm phải giúp cho Hội Thánh 5 ngày công quả đặng tu tạo Tòa Thánh và các dinh thự nơi Thánh Địa cho đến ngày nào hoàn tất.

 

PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH

Mỗi vị Đạo Hữu Nam Nữ phải giúp cho Hội Thánh 5 ngày công quả đặng tu tạo Đền Thờ Đức Chí Tôn và các dinh thự.

Số công quả ấy phải gởi cho Chức Sắc đệ về Tòa Thánh ít nữa là cuối tháng 6 cho hoàn tất, ngoài ra những vị nào có lòng hiếu hạnh với Đại Từ Phụ, muốn lập công lao vĩ đại thì tùy hỉ thêm bao nhiêu cũng đặng.

ĐIỀU THỨ MƯỜI HAI: Phương Cách Thân Thiện Với Quyền Đời

LUẬT

Thiên Phong Chức Sắc phải vào Hạnh Đường học thêm đạo lý, luật Đạo, luật Đời đặng dễ bề thân thiện cùng Đời mà độ Đời cho biết Đạo. Phải giữ phẩm giá của mình cho đặng thanh cao đạo đức.

 

PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH

Muốn thân thiện với quyền Đời, thì chư Chức Sắc Thiên Phong phải có đủ tư cách đạo hạnh, tánh tình thuần hậu, cùng là ăn mặc cho trang hoàng sạch sẽ.

Mỗi khi đi hành Đạo nơi nào, phải cần liệu phương thân thiện với quyền Đời. Thảng như có xảy ra điều chi Đạo Đời phản khắc, thì phải đủ năng lực bảo đảm thể diện của Đạo.

Nếu vị Chức Sắc nào chẳng vì danh thể Đạo, làm cho đến đổi Đời rẻ rúng, thì sẽ bị Hội Thánh trừng trị nghiêm nhặt.

ĐIỀU THỨ  MƯỜI BA: Hành Vi Đương Thời Thế Nào, Và Sẽ Tới Phải Thế Nào?

LUẬT

Đương thời Đạo được thạnh hành phát đạt, một phần ít Chức Sắc vì già yếu không lo tròn trách nhậm. Vậy từ đây sắp tới xin Hội Thánh tuyển chọn nhơn tài và mở rộng cho hạng thanh niên gia công giúp Đạo.

 

PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH

Đương thời còn nhiều vị Chức Sắc Hành Chánh không biết chữ và lớn tuổi, không đủ sức đảm nhiệm vai tuồng trọng hệ, xin Hội Thánh nên lựa chọn những vị khác cho có đủ tài đức bặt thiệp để thay thế.

Bên Nữ Phái thì đặng phần châm chế cho tới ngày đủ thông đạo lý mới đặng riêng quyền, bằng chẳng vậy cứ tùng Nam mà hành chánh.

Mỗi khi thay đổi Chức Sắc thì vị Thiên Phong có quyền trong tỉnh phải lập lễ đưa và rước cho long trọng, trừ ra những vị nào có tội bị Hội Thánh rút về thì không được hưởng đặc ân ấy.

Mỗi hạn kỳ 6 tháng, chư Đầu Tỉnh Đạo phải phúc sự về cho Ngọc Chánh Phối Sư biết rõ cả hành động của mỗi vị Chức Sắc trong phần tỉnh của mình , đặng Hội Thánh biết mà ban khen.

ĐIỀU THỨ MƯỜI SÁU: Bỏ Thăm Tín Nhiệm Hay Là Không Tín Nhiệm Quyền Thống Nhứt Lại Một Lần Nữa

LUẬT

Toàn Đạo Nam Nữ đồng công nhận và tín nhiệm Quyền Thống Nhứt của Đức Hộ-Pháp cho đến ngày có Giáo-Tông ra mặt.

 

PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH

Trong mấy năm vừa qua, nền Đạo nhờ nương dưới Quyền Thống Nhứt của Đức Hộ-Pháp mà đặng thạnh hành phát đạt một cách mau chóng, trên Hội Thánh đủ oai quyền vững đạt, dưới chúng sanh đặng đầy đủ tinh thần nghị lực mà thực hành chủ nghĩa cao thượng của Đức Chí Tôn. Vậy từ đây toàn Đạo Nam Nữ nên để cả đức tin nơi Ngài hầu đủ phương pháp tạo Đời sửa thế.

ĐIỀU THỨ MƯỜI BẢY: Nhượng Quyền Cho Quyền Vạn Linh Cầm Quyền Chánh Trị Của Đạo

LUẬT

Toàn Đạo Nam Nữ giao Quyền Chánh Trị Đạo cho Quyền Thống Nhứt cầm cho đến ngày có Đầu Sư Nam Nữ chánh vị.

 

PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH

Theo Pháp Chánh thì Quyền Chánh Trị Đạo là đặc quyền của Đầu Sư, nhưng hiện thời bên Cửu Trùng Đài phẩm vị Đầu Sư không có, còn Quyền Vạn Linh thì không đủ sức, vì thiếu bậc tài ba đạo đức, nên để cho Quyền Thống Nhứt đủ năng lực đặng lập thành quyền Đạo đối với quyền Đời đương nhiên cùng các nền tôn giáo. Ấy là cái hay làm cho Đạo ra thiệt tướng

CHƯƠNG THỨ II:
PHƯỚC THIỆN

ĐIỀU THỨ MƯỜI: Gầy Dựng Cơ Thể Phước Thiện Các Nơi, Và Những Phương Hay Đặng Châu Cấp Cho Những Kẻ Tật Nguyền Cô Độc

I.-

Luật Tuyển Chọn

II.-

Cầu Phong

III.-

Hàm Phong

IV.-

Truy Phong

V.-

Quyền Phong Thưởng

VI.-

Thể Lệ Hội Phước Thiện

VII.-

Phần Tạo Cơ Sở

ĐIỀU THỨ MƯỜI MỘT: Phương Chỉnh Đốn Về Mặt Nghi Tiết Của Đạo Nơi Các Thánh Thất Và Về Phần Quan Hôn, Tang Tế

CHƯƠNG THỨ II: PHƯỚC THIỆN

 

ĐIỀU THỨ MUỜI:  Gầy Dựng Cơ Thể Phước Thiện Các Nơi, Và Những Phương Hay Đặng Châu Cấp Cho Những Kẻ Tật Nguyền Cô Độc (*1)

LUẬT

Kỷ luật Thập nhị đẳng cấp Thiêng liêng của Chức Sắc Phước Thiện định y như dưới đây: (*2)

  1- Minh Đức
  2- Tân Dân
  3- Thính Thiện
  4- Hành Thiện
  5- Giáo Thiện
  6- Chí Thiện
  7- Đạo Nhơn
  8- Chơn Nhơn
  9- Hiền Nhơn
10- Thánh Nhơn
11- Tiên Tử
12- Phật Tử

 

(*1) Bản cũ ấn bản năm Nhâm Thìn 1952 ghi là cơ sở Phước Thiện.
(*2) Bản cũ ấn bản năm Nhâm Thìn 1952 ghi là: Thập nhị đẳng cấp Thiêng liêng của Chức Sắc Phước Thiện định như dưới đây: (Không có từ Kỷ luật)

 

I.- LUẬT TUYỂN CHỌN

Bất luận Nam hay Nữ, ai ai cũng đặng dưới quyền tuyển chọn vào Phước Thiện của Đạo, hoặc người có Đạo, hoặc người chưa có Đạo, muốn vào Phước Thiện thì phải lập tờ hiến thân trọn đời, xin làm công quả cho cơ sở Phước Thiện.

Những Chức Sắc hay Chức Việc đương quyền hành chánh mà muốn hiến thân làm công quả vào cơ sở Phước Thiện, thì phải có giấy chứng nhận do đẳng cấp trật tự mình mới đặng. Còn Tín Đồ thì phải có giấy chứng tánh hạnh tốt của Bàn Trị Sự cho thì bên Phước Thiện mới thâu nhận.

Người nào mới nhập vào Phước Thiện cũng phải khởi đầu làm công quả theo hạng Minh Đức.

 

II- CẦU PHONG

Chức Sắc Phước Thiện Nam Nữ phải chịu dưới quyền công nhận của toàn Hội Phước Thiện, mới đặng thăng chức hay là buộc tội mà bị sa thải.

Bậc Minh Đức muốn lên bậc Tân Dân phải có 3 năm công nghiệp đầy đủ với chức trách, phải có tờ kiết chứng công nghiệp, tờ khai tánh đức tốt, trường trai và tư cách xứng đáng mới đặng dự vào sổ cầu phong.

Sổ cầu phong ấy phải đệ về Hội Thánh (Văn Phòng sở Phước Thiện tại Tòa Thánh) trước ngày 30 tháng 8 thường niên.

Người nào nhập vào Phước Thiện đều phải do đẳng cấp y theo trên đây mà hành sự, phải có đủ 3 năm công nghiệp Minh Đức mới đặng cầu thăng thưởng lên bậc Tân Dân. Tân Dân phải có đủ 3 năm công nghiệp mới đặng lên Thính Thiện, v...v...

Bậc Hành Thiện mà muốn lên Giáo Thiện thì ngoài ra luật 3 năm công nghiệp, còn phải nuôi dưỡng đủ 12 gia tộc mới đặng.

Mỗi đẳng cấp phải có đủ 3 năm hành thiện mới mong bước qua đẳng cấp khác.

Ngoại trừ ra ai có đại công mà có đủ bằng cớ và chiếm đặng lòng tín nhiệm của sanh chúng dâng lên thì cũng đặng dự sổ cầu phong. Những vị nào để hết tâm vì Đạo mà phải chịu khổ hạnh hoặc bị tù tội ngục hình cũng đặng dự vào sổ cầu phong ngoài luật đã định.

 

III- HÀM PHONG

Hạng Hàm Phong cũng vậy. Những vị nào đủ công nghiệp mà đã quá lục tuần thì cũng đặng dự vào sổ cầu phong hàm phẩm, nhưng cũng phải chịu y theo điều kiện thuộc về hạng ân phong vậy.

 

IV- TRUY PHONG

Hạng truy phong công nghiệp những người đã quá vãng, mà có đủ bằng cớ đặng công chúng hoan nghinh và Tòa Đạo minh xét rồi thì đặng đem vào sổ cầu phong cho toàn Hội Phước Thiện công nhận.

Những vị đắc phong hàm phẩm, lúc còn sanh tiền còn lập thêm công nghiệp xứng đáng mà liễu Đạo trước ngày cầu phong thăng cấp thì cũng đặng đem vào sổ cầu truy phong vậy.

 

V- QUYỀN PHONG THƯỞNG

Quyền phong thưởng Chức Sắc Phước Thiện hay là buộc tội Chức Sắc ấy thì về quyền đặc biệt của Đức Hộ Pháp mà thôi.

 

VI- THỂ LỆ HỘI PHƯỚC THIỆN

13.             Mỗi năm, sau ngày Hội Quyền Vạn Linh có Đại Hội Phước Thiện một lần.

14.             Về phần tuyển chọn Phái Viên của hạng Minh Đức, Tân Dân và Thính Thiện tức là hạng mới xin làm công quả học Thiện, hoặc theo Thiện, hoặc nghe Thiện.

Mỗi Quận Đạo nào có lập cơ sở lương điền công nghệ, thương mãi thuộc về Phước Thiện, thì từ 1 đến 500 người hiến thân công quả đặng cử 1 vị Phái Viên ra thay mặt, từ 501 đến 1000 thì công cử 2 vị y theo thể lệ chọn Phái Viên Quyền Vạn Linh.

Về phần công cử Nghị Viên của hạng Hành Thiện tức là hạng Chủ Sở và Chức việc Bàn Cai Quản nhà sở Phước Thiện chánh.

Mỗi Quận Đạo nào có lập cơ sở lương điền công nghệ, thương mãi thuộc về Phước Thiện, thì cả Chủ Sở nơi ấy và Chức việc Bàn Cai Quản hiệp nhau công cử Nghị Viên.

a.)

Cả Chủ Sở Lương điền, Công nghệ, Thương mãi thì đặng chọn cử 1 vị thay mặt.

b.)

Cả Chức Việc, Bàn Cai Quản nhà sở Phước Thiện chánh thì đặng chọn cử ra 1 vị thay mặt.

Nghị Viên và Phái Viên hiệp lại gọi là Ban Ủy Viên thay mặt cho toàn Phước Thiện nơi mỗi Quận.

Người đắc cử phải là hạng trường trai, có tánh đức tốt mới xứng là người thay mặt cho Phước Thiện.

Khi được tuyển chọn rồi, Đầu Quận phải giao cho người đắc cử ấy tờ kiết chứng y như kiểu nhứt định của Hội Thánh.

Lúc về Tòa Thánh dự Hội thì phải trình tờ kiết chứng ấy mới đặng vào dự Hội.

Cuộc chọn cử Ban Ủy Viên thay mặt cho toàn Phước Thiện nơi mỗi Quận, thì phải có mặt vị Giáo Thiện Đầu Quận Phước Thiện làm Chủ Tọa.

Ban Ủy-Viên phải có mặt tại Tòa Thánh trước ngày dự hội ít nữa là 5 ngày.

Còn phần Chức Sắc chánh danh Phước Thiện Nam Nữ từ Giáo Thiện đổ lên đều có quyền đến dự Hội toàn Phước Thiện.

 

VII- PHẦN TAÏO CƠ SỞ

3.                 Mỗi Quận Đạo phải lập ra một nhà sở Phước Thiện chánh thức, nơi nhà sở ấy mới đặng phép hội hiệp lo thương lượng làm ăn thuộc về Phước Thiện.

4.                 Mỗi Làng Đạo phải khai mở nhiều sở lương điền công nghệ, thương mãi. Các sở Lương điền, Công nghệ, Thương mãi ấy phải chịu dưới quyền của sở Phước Thiện chánh.

5.                 Nơi mỗi nhà sở Phước Thiện chánh phải lập một cơ quan thiết dụng như là:

a.)

Bảo Sanh Viện

b.)

Y Viện

c.)

Ấu Trỉ Viện

d.)

Dưỡng Lão Đường

e.)

Học Viện

Mỗi sở lương điền công nghệ phải có 1 vị Chủ Sở làm đầu. Vị nào muốn đặng chọn cử làm Chủ Sở thì phải là hạng Hành Thiện mới đặng.

Mỗi nhà Sở Phước Thiện trong Quận Đạo phải cử ra 1 Bàn Cai Quản để lãnh trách nhiệm Chủ Trưởng nhà sở ấy.

 

Mỗi Bàn Cai Quản phải có ít nữa là 12 người Chức Việc:

1

Chủ Trưởng

1

Phó Chủ Trưởng

1

Thủ Bổn

1

Phó Thủ Bổn

1

Từ Hàn

1

Phó Từ Hàn

6

Nghị Viên.

PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH

Trong hàng 6 Nghị Viên phải chọn cử ra 2 viên Kiểm Soát. Chức Việc nầy phải chọn trong hạng người hiến thân trọn đời vào sở Phước Thiện, có tâm đức, tư cách xứng đáng, trừ ra chức Chủ Trưởng thì phải lựa chọn công cử trong hạng Chủ Sở Lương điền Công nghệ mà thôi.

Cuộc công cử nầy phải có mặt Đầu Họ, Đầu Quận, Chủ Tọa và Sĩ Tải hay Luật Sự chứng kiến. Mỗi khi công cử phải lập Vi Bằng.

 

Phận sự Bàn Cai Quản

Phận sự Bàn Cai Quản là lo chăm nom xem xét các cơ sở Lương điền, Công nghệ thuộc về sở Phước Thiện của mình cai quản.

Mỗi tháng, Bàn Cai Quản phải hội nhóm ít nữa là 2 kỳ trong khi có đàn lệ tại Thánh Thất sở tại.

Nếu xa Thánh Thất thì được nhóm tại nhà sở Phước Thiện.

 

Phận sự Chủ Trưởng

Khi nhóm, Chủ Trưởng làm Chủ Tọa, người đem các vấn đề cơ sở Phước Thiện, sắp đặt có thứ tự trong chương trình cho chư Nghị Viên bàn định.

Nghị Viên không đặng bàn tính việc gì khác hơn là vấn đề đã lập trong chương trình. Khi Chủ Trưởng xướng đề ra thì phải giải rành rẽ cho chư Nghị Viên được thông hiểu, rồi để cho chư Nghị Viên tự do bàn định. Chủ Trưởng không nên bàn cải chi với Nghị Viên. Sau khi chư Nghị Viên bàn cải rồi, Chủ Trưởng gom tất cả ý kiến hay của phần đông chư Nghị Viên mà lập thành Quyết Nghị.

 

Phận sự Phó Chủ Trưởng

Phó Chủ Trưởng phải chung trí giúp Chủ Trưởng lập chương trình và bàn định các vấn đề trước khi đem ra nhóm hội.

Khi Chủ Trưởng vắng mặt thì Phó Chủ Trưởng đặng quyền thay thế cũng như Chủ Trưởng vậy.

 

Phận sự Thủ Bổn

Thủ Bổn lãnh phần việc bút toán và biên bản sổ thâu xuất cho Bàn Cai Quản xem xét trong mỗi kỳ nhóm lệ. Thủ Bổn chịu trách cứ về số tiền mình giữ và không đặng phép xuất chi phí nào mà không có Chủ Trưởng, hay là Phó Chủ Trưởng thế quyền chứng kiến.

Thủ Bổn gìn giữ sổ Thâu Xuất (Thâu Xuất phải biên hằng ngày và cộng chung mỗi tháng).

Một cuốn sổ ghi công quả

Một cuốn sổ biên tài sản.

Một cuốn sổ Cấp tế những người cô quả, bệnh hoạn, đói khổ, già cả, tật nguyền, góa bụa và quan, hôn, tang, tế.

Lúc nào Bàn Cai Quản muốn xem xét, thì Thủ Bổn phải bày các sổ sách. Bất hạng là lúc nào, Chủ Trưởng cũng có quyền xem xét sổ sách và tiền bạc.

Mỗi kỳ nhóm thường lệ, Thủ Bổn phải lược thuật sự quản xuất tài chánh cho rõ ràng.

 

Phận sự Phó Thủ Bổn

Phó Thủ Bổn lãnh phần giúp Thủ Bổn trong phần giấy tờ sổ sách về tài chánh và thay mặt cho Thủ Bổn trong khi người vắng mặt.

 

Phận sự Từ Hàn

Từ Hàn lãnh phần lập Vi Bằng trong mỗi kỳ hội nhóm. Người giữ:

1 cuốn sổ biên tên họ những Đạo Hữu hiến thân trọn đời vào sở Phước Thiện, có đủ ngày tháng hiến thân và những điều cần yếu thuộc về gia tộc Đạo Hữu ấy.

1 cuốn sổ biên nhận các thơ tín tiếp đặng.

1 cuốn sổ biên nhận các thơ tín gởi đi.

1 cuốn sổ biên tên các Chức Việc Bàn Cai Quản và tên các Đạo Hữu có công sáng tạo cơ sở Phước Thiện.

 

Phận sự Phó Từ Hàn

Phó Từ Hàn lãnh phần giúp Từ Hàn trong các phận sự.

 

Phận sự Nghị Viên

Nghị Viên lo chăm nom quyền lợi chung để giúp hay cho cơ sở Phước Thiện được mau chóng thạnh hành phát triển.

Các vị nầy giúp Chủ Trưởng việc trật tự trong các kỳ nhóm.

Phải chọn lựa trong hàng Nghị Viên cử ra 2 vị Kiểm Soát, trong hạn lệ là 1 năm để lãnh phận sự tra xét sổ sách của Thủ Bổn và Từ Hàn.

Giấy tờ nào cần ích trong cuộc điều tra sổ sách, thì Thủ Bổn phải giao cho Kiểm-Soát Viên xem xét.

Tờ lược thuật về việc quản xuất tài chánh và sản vật của Thủ Bổn, phải đủ 2 Kiểm-Soát Viên xem xét và ký tên.

Kiểm-Soát Viên được tự quyền lập phúc sự các việc điều tra sổ sách đệ về cho Hội Thánh biết.

Trước khi xướng lập cơ sở Lương điền, Công nghệ, thì chỉ nhờ nơi lòng từ thiện của toàn Đạo Hữu trợ giúp. Ngoài ra, những vị nào hảo tâm dâng thêm tài vật chi xứng đáng thì đặng nêu tên vào bảng danh dự để làm kỷ niệm nơi cơ-sở.

Những vị nào hảo tâm hiến nhà hiến đất, hoặc các tài vật khác, thì phải làm giấy tờ cho rành rẽ, đóng bách phần cải bộ đặng giao trọn quyền cho Phước Thiện làm chủ.

Những vị đã trọn hiến thân vào sở thì Chủ Sở phải bảo toàn gia tộc của vị hiến thân ấy như chồng, vợ, con, cha mẹ ruột, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng và cắt phận sự cho mỗi người. Mỗi sở Hành Thiện phải bảo toàn cho đủ 12 gia tộc mới đúng phép hành thiện theo luật Phước Thiện.

Chư Chức Việc bên Hành Chánh cũng phải để tâm giúp ích cho bên Phước Thiện đặng mau kết quả mỹ mãn.

Nếu trong sở có xảy ra điều chi bất hòa mà điều đình không đặng, thì phải lập Hội Công Đồng y như bên Hành Chánh mà trừng trị. Kỳ dư xảy ra với các cơ quan trong nền Chánh Trị Đạo, thì buộc phải giải ra Tòa Đạo phân xử.

Phải tìm phương châu cấp những gia đình nghèo nàn của chư Chức Sắc đắc lịnh Hội Thánh thuyên bổ đi hành Đạo phương xa.

Khi các cơ sở đã thành lập, mỗi năm phải tùy theo huê lợi trong sở đặng giúp lương thực trong các Thánh Thất, hoăc mỗi Văn Phòng trong nền Chánh Trị Đạo và phải định riêng ra một phần để châu cấp cho những kẻ tật nguyền cô độc.

Về khoản cấp tế của Phước Thiện, chẳng nên phân biệt người trong Đạo hay là ngoài Đời, nghĩa là mỗi phen nơi nào bị tai nạn khổ tâm khổ trí thì lẽ cố nhiên người hành thiện chẳng thế nào bỏ qua cho đặng, chẳng những trợ giúp về mặt vật chất hình thức bên ngoài mà thôi, mà lẫn đến tinh thần bên trong cũng phải có sự an ủi tâm hồn cho người được an vui bình tâm định trí.

Nếu một ai vì cảnh bi thương trong gia-đình, hoặc vì đau thảm về phần xác thịt, mà đến nhà Phước Thiện cầu xin cứu giúp, hay là một tấn kịch khốc hại đã phô bày trước mắt mà người hành thiện lại nỡ đành làm ngơ, để cho người khốn khổ ấy phải cam tâm tủi phận, chẳng nhờ nơi lòng ái truất của nhà lương thiện đoái đến mà có đủ bằng cớ, thì vị Hành Thiện ấy phải bị lỗi nặng với danh giá nhà Phước Thiện và phải chịu phần trách cứ.

ĐIỀU THỨ MƯỜI MỘT: Phương Chỉnh Đốn Về Mặt Nghi Tiết Của Đạo Nơi Các Thánh Thất Và Về Phần Quan, Hôn, Tang, Tế

LUẬT

Hội Thánh phải bổ đến mỗi Quận Đạo: Lễ Sĩ, Cai Nhạc và Giáo Nhi có cấp bằng của Hội Thánh, đặng chỉnh đốn về mặt nghi tiết nơi các Thánh Thất và các cuộc quan hôn, tang tế.

 

PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH

Muốn cho y theo một kiểu mẫu, xin Hội Thánh lập một bổn lễ quan hôn, tang tế, đặng ban hành cho toàn Đạo. Bên Hành Chánh và bên Phước Thiện phải tìm phương sửa cải các điều lệ của Lễ Viện và chỉnh đốn lễ quan hôn, tang tế, lại cho đẹp đẻ y theo cổ tục của nước Nam.

Cả thức lệ về mặt nghi tiết và phương pháp thật hành về quan hôn, tang tế đều thuộc về quyền của Phước Thiện sắp đặt, nhưng bên Hành Chánh, Phổ Tế và Tòa Đạo cũng phải chung lo cho đặng trang hoàng.

Mỗi Quận Đạo thường phải chọn người hiến thân có thông thạo chút ít về lễ nhạc đặng gởi về Hội Thánh học tập, đến khi thành tài có cấp bằng của nhà trường ban cho rồi mới đặng thuyên bổ đi hành sự, tùy theo lịnh Hội Thánh nhứt định.

Sau khi trong mỗi Quận Đạo có người rành rẽ chăm nom dạy về Lễ Nhạc thì con nhà Đạo đặng đến học thong thả, nhưng phải làm tờ tình nguyện lập công đặng hiến lễ trong các Thánh Thất. Như trò nào có thiên tư về khoa ấy, muốn thi lấy cấp bằng thì phải làm tờ hiến thân trọn vẹn gởi về Hội Thánh xin cho dự thí. Khi thi đỗ có cấp bằng của nhà trường ban cho rồi, thì phải tuân theo luật của Hội Thánh thuyên bổ đi các nơi hành sự.

CHƯƠNG THỨ III: PHỔ TẾ

 

ĐIỀU THỨ MƯỜI BỐN: Phương Cách Đối Phó Cùng Các Chi Phái Phản Đạo

LUẬT

Chiếu theo Thánh Giáo của Đức Chí Tôn và Đạo Nghị Định số 8 của Đức Lý Giáo Tông, thì toàn cả Chúng Sanh nhứt định không nhìn nhận các Chi Phái phản Đạo và phải định quyết là Bàn Môn Tả Đạo.

 

PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH

1- Phần đông con cái của Đức Chí Tôn có một hạng biết rõ mối Đạo là một cơ bí mật của Trời sáng tạo, đặng cứu vớt sanh linh khỏi trầm luân khổ hải, song vì còn yếu ớt đức tin nên hãy còn đứng ngoài vòng để mắt xem chừng vào cửa Đạo, còn một hạng nữa thì lại đang mê mẩn trong vòng vật chất, lầm tưởng cho nền Đạo là một cơ quan xảo kế của phàm nhơn sáng tạo để mê hoặc tâm lý của người Đời mà xem dường như rẻ rúng; thành thử con cái của Đức Chí Tôn vẫn còn mịt mờ trong màn hắc ám. Vậy phương diện Phổ Tế Nhơn Sanh là một hành vi cần cấp để dẫn dắt người Đời vào trường học Đạo của Trời cho mau chóng, đặng sớm tầm con đường siêu rỗi tội tình cho nhân loại.

2- Hội Thánh phải tuyển chọn những Chức Sắc Thiên Phong đủ tài đủ đức đặng thuyên bổ qua cơ-quan Phổ Tế.

3- Chư vị Chức Sắc lãnh phần Phổ Tế phải kể mình như các vị Quan Phương Bá nhà Châu buổi nọ, nghĩa là mảnh thân gánh nặng nghĩa vụ nơi vai, thì phải châu lưu cùng khắp trong chốn thôn quê sằn dã, vào tận nơi nào có lấp loáng bóng người đặng đem chơn lý Đạo mầu thức tỉnh cho thế gian hồi tâm giác ngộ, kẻo một ngày trễ là một ngày hại cho nhơn sanh chưa biết Đạo.

4- Đối với các Chi Phái do Đại Đạo lập thành mà phản loạn Chơn Truyền, ngày nay đã lỗi thệ cùng Thầy, thì xin Hội Thánh thể lòng đại từ đại bi của Đức Chí Tôn, mở kỳ ân xá cho họ đặng nhập môn tái thệ y theo Châu Tri số 31 đề ngày 18 tháng 9 năm Bính Tý, duy trong Châu Thành Tòa Thánh, những kẻ phản Đạo không đặng nhập môn trở lại mà thôi.

5- Hiện thời đương lo tạo tác Tòa Thánh, cấm nhặt các Chi Phái vào Thánh Địa toan mưu khuấy rối. Chừng nào Toà Thánh lập xong, dầu Chức Sắc các Chi Phái muốn nhập môn làm Tín Đồ đi nữa, thì cũng phải có Quyền Vạn Linh và Quyền Chí Tôn công nhận mới đặng.

6- Ngoài ra các vị Phổ Tế, nếu có Chức Việc hoặc Đạo Hữu nào độ đặng 500 tới 1.000 người ngoại đạo nhập môn, thì vị ấy sẽ đặng Hội Thánh đem ra Quyền Vạn Linh cầu xin phong thưởng vào phẩm Lễ Sanh, độ đặng từ 1.000 tới 3.000 người thì được vào phẩm Giáo Hữu, độ đặng từ 3.000 tới 10.000 người thì đặng vào phẩm Giáo Sư.

7- Những Thánh Thất thuộc về các Chi Phái mà muốn hiến về cho Hội Thánh, thì phải làm giấy tờ rành rẽ giao cho vị Phổ Tế đem về thương lượng với Hội Thánh.

8- Chức Sắc Phổ Tế, khi gặp đặng những điều bất hợp pháp, cùng việc bất hòa xảy ra giữa các cơ-quan có đủ bằng cớ, hoặc bên quyền Hành Chánh, bên Phước Thiện, bên Tòa Đạo, thì đặng quyền dâng sớ kêu ca ngay cho mỗi vị Chưởng Quản 3 cơ-quan ấy.

 

CHƯƠNG THỨ IV:

TÒA ĐẠO

ĐIỀU THỨ MƯỜI LĂM: Định Án Những Người Phạm Luật Pháp Và Hình Phạt Ra Thế Nào?

I.-

Phạm Pháp

Đệ nhứt hình:

Đệ nhị hình:

Đệ tam hình:

Đệ tứ hình:

Đệ ngũ hình:

 

II.-

Phạm Luật

Đệ nhứt hình:

Đệ nhị hình:

Đệ tam hình:

Đệ tứ hình:

Đệ ngũ hình:

Đệ lục hình:

Đệ thất hình: 

Đệ bát hình:

Đệ cửu hình:

Đệ thập hình:

CHƯƠNG THỨ IV: TÒA ĐẠO

 

ĐIỀU THỨ MƯỜI LĂM: Định Án Những Người Phạm Luật Pháp Và Hình Phạt Ra Thế Nào?

LUẬT

Những vị nào phạm Luật Pháp, thì chiếu theo Thập Hình của Đức Lý Gìáo Tông mà định tội. Kẻ phạm phải chịu dưới 2 quyền luật:

1- Luật: là Tân Luật và Luật Hội Thánh.

2- Pháp: là Pháp Chánh Truyền và Đạo Nghị Định.

 

PHƯƠNG PHÁP THẬT HÀNH

Nghĩ vì Tòa Đạo là một cơ quan bảo thủ Chơn Truyền y theo khuôn viên Đạo Pháp, bảo đảm sanh chúng, trị loạn, phò nguy, gìn cân công lý cho toàn cả chúng sanh đặng sống một cách thung dung thơ thới dưới mặt Luật Công Bình của Đạo.

Tòa Đạo lập ra cốt yếu để binh vực những người bị uất ức, trừng phạt những người phạm Luật Pháp, gìn giữ quyền hành phân minh, đẳng cấp trật tự cho nền Chánh Trị Đạo.

Trách nhiệm trọng hệ hơn hết của Toà Đạo là vô tư vô vị.

 

I- PHẠM PHÁP:

- Đệ nhứt hình:

Không tuân Pháp Chánh Truyền và Đạo Nghị Định.

Phản loạn Chơn Truyền.

Chia phe phân phái và lập Tả Đạo Bàn Môn.

Những vị nào phạm các điều trên đây thì khép vào tội thứ nhứt trong Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông nghĩa là Trục Xuất.

 

- Đệ nhị hình:

Chư Chức Sắc Thiên Phong không tùng mạng lịnh của Hội Thánh:

Thuyên bổ không đi.

Không trọn phế Đời hành Đạo.

Bỏ bê phận sự.

Những vị nào phạm vào các điều khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ hai trong Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là Giáng Cấp tới Tín Đồ, hay là buộc hành đạo ngoại quốc, trừ ra các xứ lân bang Nam Quốc như Ai Lao, Tần Quốc.

 

- Đệ tam hình:

Làm nhơ danh Đạo.

Mượn danh Đạo tạo danh Đời.

Lợi dụng danh Đạo làm điều bất chánh.

Những vị nào phạm vào các điều khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ ba trong Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là Giáng Cấp từ đương quyền xuống tới 2 hay là 1 cấp.

 

- Đệ tứ hình:

Lấn quyền, giành quyền.

Phạm thượng.

Tự chuyên sửa cải Chơn Truyền.

Những vị nào phạm vào các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ tư trong Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông nghĩa là Ngưng Quyền từ 3 năm tới 5 năm.

 

- Đệ ngũ hình:

Mê hoặc Chúng sanh.

Cám dỗ.

Những vị nào phạm vào các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ năm trong Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là Ngưng Quyền từ 1 năm tới 3 năm và phạt vào Tịnh Thất.

 

II- PHẠM LUẬT

- Đệ nhứt hình:

Không tuân Tân Luật và các Luật Lệ Hội Thánh.

Công kích Hội Thánh.

Nghịch mạng.

Những vị nào phạm vào các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ nhứt trong Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là Trục Xuất.

 

- Đệ nhị hình:

Tư thông.

Dấy loạn Chúng sanh.

Những vị nào phạm vào các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ nhì trong Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là Giáng Cấp tới Tín Đồ hay là buộc hành đạo ngoại quốc, trừ ra các xứ lân bang như Ai Lao, Tần Quốc…

 

- Đệ tam hình:

Thâm lạm tài chánh.

Giả mạo văn từ.

Những vị nào phạm vào các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ ba trong Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là Giáng Cấp từ phẩm đương quyền xuống tới 2 hay là 1 cấp.

 

- Đệ tứ hình:

Khi lịnh Hội Thánh.

Lập quyền riêng.

Những vị nào phạm vào các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ tư trong Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là Ngưng Quyền từ 3 năm tới 5 năm.

 

- Đệ ngũ hình:

Phạm Ngũ Giới Cấm.

Những vị nào phạm vào luật nầy thì bị khép vào tội thứ năm trong Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là Ngưng Quyền từ 1 năm tới 3 năm.

 

- Đệ lục hình:

Cường ngạnh.

Những vị nào phạm vào luật nầy thì bị khép vào tội thứ sáu trong Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là phạt vào Tịnh Thất từ 1 tháng tới 1 năm, mà còn hành chánh như thường.

 

- Đệ thất hình:

Phạm Tứ Đại Điều Qui.

Những vị nào phạm vào luật nầy thì bị khép vào tội thứ bảy trong Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là thuyên bổ đi nơi khác chỗ của mình đương hành đạo.

 

- Đệ bát hình:

Bê trễ phận sự.

Biếng nhác.

Những vị nào phạm vào các khoản trên đây thì bị khép vào tội thứ tám trong Thập Hình của Đức Lý GiáoTông, nghĩa là phải về Tòa Thánh đặng gần Giáo Tông và Hộ-Pháp cầu học Đạo.

 

- Đệ cửu hình:

Ganh ghét.

Hung bạo.

Đố kỵ.

Xu phụ.

Những vị nào phạm vào các khoản trên đây thì bị ghép vào tội thứ chín trong Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là phải ăn-năn sám hối, thọ tội cùng chúng sanh.

 

- Đệ thập hình:

Phạm Thế Luật:

Những vị nào phạm vào luật nầy thì bị khép vào tội thứ mười trong Thập Hình của Đức Lý Giáo Tông, nghĩa là hầu kẻ đức hạnh của Hội Thánh định đặng cầu học Đạo.

Những vị nào đã bị luật ngoài Đời trừng trị, tùy theo tội hình nặng nhẹ, Tòa Đạo sẽ chiếu theo Thập Hình mà trừng trị thêm nữa.

Những vị đã phạm tội mất phẩm vị Thiên Phong của mình, phải có Luật Ân Xá của Quyền Vạn Linh và Quyền Chí-Tôn mới đặng; nhưng 4 cơ-quan toàn thể Chánh Trị Đạo còn phương tế độ, là minh tra công nghiệp, khi những vị ấy đã biết ăn-năn, lập nên công nghiệp phi thường, toàn công chúng hoan nghinh và Tòa Đạo minh tra đủ lẽ, thì đặng phép phục sự với 1 vị Chức Sắc Thiên Phong nào của kẻ phạm lựa chọn, hầu phục quyền đoái công chuộc tội, thì mới đặng cầu xin phục chức.

Bộ Luật nầy ban hành kể từ ngày Rằm tháng Giêng năm Mậu Dần (14 Février 1938) và ngày sau còn thêm vào nữa, tùy theo trình độ của Chúng sanh.

HẾT

 

Kiểm duyệt, ngày 11 tháng 10 năm Kỷ Dậu.
(dl. 20-11-1969)

Trưởng Ban Kiểm Duyệt Kinh Sách Đạo
Hiến Pháp H.T.Đ.
(ấn ký)
Trương Hữu Đức

 

PHỤ CHÚ: Sự khác biệt giữa hai ấn bản năm Nhâm Thìn (1952) và ấn bản năm Kỷ Dậu (1969).

(*) Phụ chú: Bản cũ ấn bản năm Nhâm Thìn 1952 có phần sau đây:

Những Khoản Thêm Vào Bộ Đạo Luật và Ban Hành Kể Từ Ngày Hôm Nay:

1- Thủ tiêu 2 chữ Tuyệt Dục trong Tân Luật.

2- Rộng ơn cho thỏa lời ước vọng của nhơn sanh, là để tự do cho hàng Lễ Sanh giữ trai tâm bao nhiêu tùy ý, song chẳng đặng dưới 10 ngày.

3- Truất quyền dự Hội Nhơn Sanh, quyền Hành Chánh và quyền Hành Pháp cho những vị Lễ Sanh nào chưa trường trai.

4- Cho tự do vợ chồng của Chức Sắc muốn theo cùng nhau cũng đặng, nhưng thuộc về phần Đời mà thôi, chớ chẳng dính dấp chi với Đạo, vì Chúng Sanh duy biết nuôi người thay mặt Chí Tôn, chứ chưa hề biết nuôi vợ chồng của vị Chức Sắc nào cả.

5- Vị Chức Sắc Thiên Phong Nam Phái nào có vợ con nghèo nàn, nhỏ dại thì Hội Thánh sẽ định cho 1 số tiền cứu giúp hằng niên, khi đã minh tra đủ bằng cớ rằng vợ con của vị ấy không gia thế không phương làm, bần hàn, đói khó.

6- Còn bên Chức Sắc Nữ Phái thì Hội Thánh không có định cấp dưỡng cho chồng con chi hết, vì chẳng lẽ người chồng nuôi con không nổi, bất tài đến đổi phải nhờ vợ.

7- Nếu như vị Chức Sắc Nữ Phái nào rủi góa bụa mà con còn thơ dại, khi đã minh tra đủ lẽ thì Hội Thánh sẽ định 1 phần cấp dưỡng nuôi con.

Lập tại Toà Thánh Tây Ninh, ngày 5-11-Mậu Dần
( Le 26 Décembre 1938 )

Tòa Đạo Hiệp Thiên Đài