NAM MÔ
CAO ĐÀI TIÊN ÔNG
ĐẠI BỒ TÁT MA HA
TÁT.
NHẬN ĐỊNH &
LẬP TRƯỜNG KHỐI NHƠN SANH.
“Tuân theo
chánh giáo chơn truyền & thực thi ba không”.
Kính thưa quí
chức sắc, chức việc và đồng đạo.
Lần theo dòng
lịch sử của đạo chúng tôi nhận thấy kể từ ngày Đức Chí Tôn dạy tổ chức Lễ Khai
Đạo ngày 15-10-Bính Dần (1926) tại Từ Lâm Tự (Chùa Gò Kén) đến nay chưa lúc nào
đạo được yên ổn. Ngay trong ngày khai đạo thì đã có tà quái phá đạo. Sau đó khi
thì bị quyền đời áp bức, lúc thì do nội bộ bất đồng rồi tách ra lập chi phái...
Nhưng dù bị nội khảo hay ngoại khảo đạo vẫn liên tục phát triễn. Sau mổi lần
khảo đảo là mổi lần đạo vãn hồi bản sắc trong lành để vươn lên mạnh mẽ.
Ngày 30-04-1975
chấm dứt cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt thì đạo cũng bước vào một giai đoạn mới:
Đạo sinh hoạt trong thời cộng sản... với 04 điểm nhấn: Bản Án Cao Đài (1978);
kế đó là Đạo Lịnh 01 (1979); và chi phái 1997 ra đời tại Nội Ô Tòa Thánh Tây
Ninh; và cuộc đấu tranh phục hồi cơ đạo.
Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ trong thời cộng sản là cả một thiên sử bi hùng mà trong phạm vi bài nầy
chúng tôi chỉ xin trình chánh một vài nhận định hết sức vắn tắc làm sáng tỏ lập
trường khối nhơn sanh.
A/- NHẬN ĐỊNH.
“Xác định thủ phạm và nạn nhân”
Như đã trình
chánh rằng ngắn gọn nên chúng tôi không nhận định chung chung mà đi trực diện
vào từng điểm nhấn.
I/- BẢN ÁN CAO
ĐÀI.
“Là thủ phạm hại đạo”
Ngày 20-09-1978 Mặt Trận Tổ Quốc
Tỉnh Tây Ninh ban hành BẢN ÁN hoạt động phản cách mạng của một số tên phản động
trong giới cầm đầu Giáo Phái Cao Đài Tây Ninh (gọi tắc là BẢN ÁN CAO ĐÀI).
Bản án đã lên án toàn bộ chức sắc
dày công khai đạo là phản quốc, chống cách mạng từ ngày khai đạo đến sau ngày
30-04-1975. Đức Hộ Pháp bị lên án nặng nề nhất.
Bản án được triễn khai rộng rãi
trong quần chúng mấy tháng liền, những người không chấp nhận bị tách ra và đưa
đi học tập riêng... Từ bản án Cao Đài mới có nghị quyết ngày 23-12-1978 của Hội
Đồng Nhân Dân Tỉnh Tây Ninh kỳ 6 khoá 1 nơi điều thứ 3 và 4:
Ðiều
3: Giải tán và nghiêm cấm hoạt động hệ thống tổ chức
hành chánh đạo từ trên đến cơ sở, xoá bỏ và nghiêm cấm cơ bút.
Chánh
quyền sẽ quản lý toàn bộ các cơ sở vật chất mà Ðạo đang quản lý kinh doanh
không thuộc chức năng tôn giáo để phục vụ cho lợi ích xã hội.
Ðồng
thời căn cứ vào tính chất tu hành, chánh quyền sẽ qui định cụ thể số cơ sở để
lại Ðạo quản lý và số người trong từng cơ sở để chuyên lo về mặt tín ngưỡng.
Ðiều 5: Uỷ Ban Nhân Dân Tỉnh Tây Ninh chịu trách nhiệm tổ
chức chỉ đạo, thực hiện thắng lợi Nghị quyết này, và báo cáo kết quả lên cấp
trên, và Hội Ðồng Nhân Dân Tỉnh trong kỳ họp tới.
(Báo
Tây Ninh bộ mới số 47).
Bản án là nguyên nhân để chính
quyền: Tịch thâu tài sản tôn giáo; bắt nhiều chức sắc đi cải tạo; hủy bỏ hành
chánh tôn giáo 05 cấp chuyển sang 02 cấp... Bản án là thủ phạm để chính quyền
tạo áp lực buộc Hội Thánh ra Thông tri số 01 (12-02-1979) và Đạo Lịnh 01/1979 (01-3-1979).
II/- ĐẠO LỊNH
01/1979.
“Là nạn nhân của bản án”
Sau khi có bản án thì chính quyền
ra nghị quyết ngày 23-12-1978 để thi hành án. Nạn nhơn là Hội Thánh Cao Đài.
Đạo có chánh trị đạo. Thầy đã cấm
Đạo liên hiệp với chánh trị đời nên Hội Thánh có lập trường ba không: Không chống chánh quyền, không theo
chánh quyền và không tranh với chánh quyền.
Ngài Hồ Bảo Đạo Q. Chưởng Quản
Hiệp Thiên Đài ghi lại:
...
chánh quyền có nhiều lời lẽ nặng nề lên án Phạm Công Tắc....
Với
tánh hiên ngang của đệ tử từ thuở bé đến giờ chưa từng khuất phục trước cường
quyền bạo lực do nơi các giới chánh quyền hay cường hào ác bá mà ngày nay phải
ngồi nghe bao nhiêu điều nhục nhã. Đệ tử phải tự tranh đấu với bản thể làm cách nào cho trọn với trách vụ
Thiêng Liêng giao phó, phải giữ gìn mấy triệu nhơn sanh cho đặng an lành.
Liếc
nhìn lại Hội Trường đệ tử thấy cả Chức Sắc và một số bổn Đạo dự thính bên ngoài
có dấu bực tức nóng nảy, nếu đệ tử có
thái độ chống đối lại thì cả Hội Trường sẽ hưởng ứng gây thành một cuộc rối
loạn mà nhà nước phải đàn áp và hậu quả không lường được. Dưới tâm lý
quần chúng Đạo mấy triệu tín đồ khi chạm đến lòng sùng bái của họ đối với Đức
Hộ Pháp. Vì vậy đệ tử phải trấn áp bản thân không để tỏ ra vẻ gì bực bội hay
nóng nảy mà vẫn giữ một tư cách bình thản trong mấy tiếng đồng hồ, âm thầm khổ
nhục...
.... Nếu thi hành nghiêm chỉnh bản nghị quyết nầy
thì Hội Thánh Cao Đài kể như không còn nữa. Nhưng nếu đột ngột giải tán một lần
cả hệ thống tổ chức hành chánh Đạo thì ắc có sự dao động không nhỏ trong nội bộ
của Đạo nên Ủy Ban Nhân Dân và Mặt Trận Tổ Quốc tỉnh Tây Ninh khéo léo kéo dài
việc thi hành bằng cách gài cho Hội Thánh ra bản thông tri số 01 đề ngày
12-2-1979 và Đạo lịnh số 01 ngày 1-3-1979 để rồi Hội Thánh bị bắt chẹt vi phạm....
đệ tử vẫn gánh chịu không dám tỏ ra
vẻ bực bội hay bất bình để tránh những cuộc dao động mạnh gây thành bạo lực bất
lợi cho tiền đồ của đạo và của đất nước...
Tóm lại dưới áp lực của chính
quyền Hội Thánh ký Thông Tri 01/1979 và Đạo Lịnh 01/1979 với 03 lý do cụ thể:
./ ...trách vụ Thiêng Liêng giao phó, phải giữ gìn mấy triệu nhơn sanh cho
đặng an lành.
./- ...tránh những cuộc dao động mạnh gây thành bạo lực bất lợi cho tiền đồ
của đạo và của đất nước
Sự việc rành rành như thế mà có
người lên án Hội Thánh ký Đạo Lịnh 01/1979... bởi vì họ không phải gánh vác trách nhiệm như Hội Thánh. Họ không
nhìn thấy thủ phạm mà chỉ biết lên án nạn nhân.
Đặc biệt là những văn nô, bồi bút
còn lớn tiếng gọi những tuân theo mạng lịnh của Hội Thánh là chối chúa... mà
ông Nguyễn Quốc Dũng là một điển hình. Họ xão quyệt đến thế nhằm mục đích bao
che thủ phạm và đã gạt được những người nhẹ dạ...
III/- CHI PHÁI
1997 RA ĐỜI.
“Đây là chi phái nguy hiểm nhứt trong các chi
phái”
Đạo lịnh 01/1979 ra đời. Ngài Hồ
Bảo Đạo là Chưởng Quản. Thời kỳ nầy đạo sự khá suông sẽ bởi người lãnh đạo có
đầy đủ đạo đức và năng lực. Nhưng sau đó Ngài bị quản chế rồi đến thời Hội Đồng
Quản Lý. Sau trở lại HĐCQ nhưng không ai đủ điều kiện làm Chưởng Quản nên thay
bằng Hội Trưởng. Đến thời Hội Trưởng thì đạo sự sanh ra nhiều rối rắm do sự bất
minh, bất chánh từ thượng cấp. Điều
nầy chúng tỏ nhân sự là yếu tố quyết định còn cơ chế là quan trọng nhưng không
đóng vai trò quyết định.
Do vậy nhơn sanh mới kiến nghị mở
Đại Hội Hội Thánh theo điều số 04 Đạo Lịnh 01 để chấn chỉnh đạo sự. Hội Trưởng
cho nhân viên trả lời đã có đại hội 03 lần. Nhơn sanh vận dụng nghị quyết 297
chương II điều 10 để chứng minh đó là đại hội ma.
Do vậy mà HĐCQ bí lối phải lập ra
chi phái 1997.
Các chi phái trước đây lập trong
thời kỳ có cơ bút. Chi phái 1997 lập ra trong thời kỳ không có cơ bút. Xét về
lý âm dương thì các chi phái đã đủ lý nên họ đua nhau phát triễn hàng giả thay
cho hàng thật. Ngày giờ tới đây cơ đạo được phục hồi thì Hội Thánh do thiên hạ
lập ra sẽ đủ sức và bằng cớ để giải quyết sạch sẽ vấn đề chi phái của ĐĐTKPĐ. Từ
năm 1997 chi phái HĐCQ đã chiếm danh hiệu và cơ ngơi của ĐĐTKPĐ.
B/- LẬP TRƯỜNG
KHỐI NHƠN SANH.
“Tuân y chơn truyền và thực hiện ba không”
Kể từ khi chi phái 1997 ra đời
thì người đạo đã dứt khoát đó là bàng môn tả đạo đang chiếm dụng danh hiệu và
cơ ngơi ĐĐTKPĐ. Cho nên nhơn sanh hiệp nhau yêu cầu chi phái 1997 về cơ ngơi họ
lập ra mà tu. Lập trường của khối nhơn sanh là:
./- Tuân y chánh giáo chơn truyền.
Lấy các văn bản Hội Thánh ban hành làm khuôn thước.
./- Những văn bản của Đức Hộ Pháp
dù chưa được Hội Thánh ban hành (còn ở diện Ban Tốc Ký: như Lời Thuyết Đạo quyển
05, 06 hay Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống...) vẫn có đầy đủ giá trị để tuân
y.
./- Theo đường lối trung hòa thực
thi ba không: Không chống chánh quyền, không theo chánh quyền và không tranh
với chánh quyền.
&&&
Khối nhơn sanh có mục tiêu là:
./- ĐĐTKPĐ phải có quyền sinh
hoạt tôn giáo; quyền tự do tín ngưỡng của nhân sự theo ĐĐTKPĐ phải được tôn
trọng.
./- Yêu cầu chi phái 1997 về nơi
họ lập ra mà tu; không được chiếm dụng danh hiệu và cơ ngơi ĐĐTKPĐ.
./- Hiệp với đồng đạo theo chánh
giáo chơn truyền mở Đại Hội Nhơn Sanh để phục hồi cơ đạo.
Muốn thực hiện được các mục tiêu
trên thì việc gỡ bỏ Bản Án Cao Đài năm 1978 là điều thiết yếu. Yêu cầu chính
quyền sửa sai...
Nhân sự cộng tác nhau trên tình
thần tự nguyện và bình quyền: Mọi người đều có quyền thực thi tam lập (lập
công, lập đức, lập ngôn) tùy theo hiểu biết và khả năng. Các vị chức sắc đến
địa phương công cử Bàn Trị Sự, thượng tượng, an vị... là thực thi sứ mạng chức
sắc thiên phong và đồng môn tham gia là để thực thi tam lập... Nhưng không can
dự vào hành chánh đạo ở các địa phương. Thảng như có điều chi cần góp ý thì có
văn bản rõ ràng để cùng nhau tìm ra chánh lý.
Những người không theo chi phái
mà chọn cách phụng sự khác thì khối nhơn sanh vẫn tôn trọng quyền tự do và độc
lập của họ theo tinh thần hòa bình chung sống.
Binh
quí hồ tinh, bất quí hồ đa.
Chúng ta sẳn lòng hợp tác với những
người trước kia có chủ trương chống Đạo Lịnh 01/1979 ngày nay thấy được thủ
phạm (là bản án) và nạn nhân (là đạo lịnh 01/1979) để chung lo việc phục hồi cơ
đạo. Nhưng họ phải xác định rõ ràng để tránh việc gây ra mất đoàn kết...
Cổ nhân dạy rằng: Thập mục sở thị, thập thủ sở chi. Kỳ nghiêm
hồ. Nghĩa là Mười mắt nhìn vào, mười tay chỉ vào. Phải cẩn thận.
Chúng ta cẩn thận nên cần hiệp
đồng với những người có lập trường rõ ràng mới tạo nên một tập thể có kỷ luật,
có sức mạnh, sáng suốt trong đối nội và đối ngoại để thẳng tiến đến mục tiêu đề
ra.
Nay kính.
Việt Nam ngày
16-05-Giáp Ngọ.
(15-06-2014).
(đã ký)
Lễ Sanh Ngọc
Nghệ Thanh.